Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Kinh Con Rùa (Do HT. Thích Thiện Châu giảng giải và Phật tử Diệu Danh diễn đọc)

16/02/202307:38(Xem: 839)
Kinh Con Rùa (Do HT. Thích Thiện Châu giảng giải và Phật tử Diệu Danh diễn đọc)

con rua

KINH CON RÙA

HT Thích Thiện Châu giảng giải

Phật tử Diệu Danh diễn đọc

 


 

 

Bản kinh này trích từ Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikâya) tập IV, trang 183-185 do thượng tọa Thích Minh Châu dịch, Tủ thư Phật học Vạn Hạnh xuất bản 1982

Nội dung gồm những ý chính sau đây:

1. Phật lấy ví dụ con rùa khôn ngoan khi gặp con chó sói thì rút chân và đầu cổ vào trong mai để khỏi bị chó sói giết hại để khuyên dạy chúng ta hộ trì các giác quan khi các các giác quan tiếp xúc với các đối tượng để khỏi bị "ác ma" gây tai họa .

2. Phật chỉ dạy phương pháp "hộ trì" các căn: Khi các giác quan mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý tiếp xúc với đối tượng sắc, tiếng, mùi, vị, cảm xúc, pháp. Không nên nắm giữ tướng chung (toàn diện cách hoa hồng với tất cả hình sắc, mùi thơm v.v…) tướng riêng (một phần của hoa hồng như một tai hoa hay mùi thơm) và chế ngự những nguyên nhân nào có thể gây nên say đắm, lo buồn và những ý nghĩ, những lời nói, những hành động có hại cho mình cho người.

3. Ý thứ ba nằm trong bài kệ ở cuối bản kinh vừa tóm tắt hai ý trên vừa nhấn mạnh những điểm quan trọng trong khi thực hành "hộ trì các căn" : thâu nhóm, nhiếp phục tâm tư để tâm tư không tán loạn. Vì tán loạn là nguồn gốc của phiền não và nghiệp ác, không nương tựa vào "tà kiến" (sản phẩm của những lý thuyết sai lầm, lệch lạc đối với sự thật) để nhận xét, phán đoán sự vật, không làm hại người, không nói xấu người. Và như vậy là chứng đạt được sự an tịnh hoàn toàn.

Bản kinh trên cho chúng ta thấy rõ tính chất thực tiễn của đạo Phật. Phật không nói nhiều về tâm trên bình diện bản thể như nhiều đệ tử về sau mà chỉ thẳng phương pháp "hộ trì các căn" để tâm ý đạt được sự an tịnh. Mà an tịnh vốn là bản tánh của Tâm.

"Hộ trì các căn" còn có nghĩa là đừng để tâm ý vương vấn, trói buộc bởi các giây nhợ phiền não và tà kiến. Đây cũng là đạo lý "Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm" (khi tâm phát khởi không nên để bị kẹt vào một nơi nào) mà trong kinh Kim Cương và các Thiền Kinh thường nói đến. Và phương pháp thực hiện "vô niệm", "vô trụ" cũng được Phật chỉ dạy một cách giản dị mà sâu sắc như sau:

"Trong cái nghe, sẽ chỉ thấy cái nghe. Trong cái thọ tưởng chỉ sẽ thấy cái thọ tưởng. Trong cái thức trí sẽ chỉ là cái thức trí". Như vậy, này Bâhiya, nhà ngươi cần phải học tập. Vì rằng, này Bâhiya, nếu với ngươi trong cái thấy sẽ chỉ là cái thấy; trong cái thọ tưởng sẽ chỉ là cái thọ tưởng; trong cái thức trí sẽ chỉ là cái thức trí: do vậy, này Bâhiya, người không là chỗ ấy (không bị mắc kẹt). Vì rằng, này Bâhiya, người không là đời này, không là đời sau, không là đời chặng giữa. Như vậy, đoạn tận khổ đau

 

 

 

CHÁNH KINH:

"Thuở xưa, này các Tỳ Kheo, có một con rùa, vào buổi chiều đang đi kiếm mồi dọc theo bờ sông. Một con giã can, này các Tỳ Kheo, vào buổi chiều cũng đi tìm mồi dọc theo bờ sông".

"Này các Tỳ Kheo, con rùa từ đằng xa thấy con giã can đang đi tìm mồi, thấy vậy liền rụt bốn chân và thứ năm là cổ vào trong mai rùa của mình và nằm bất động, im lặng".

"Này các Tỳ Kheo, con giã can từ đằng xa thấy con rùa, đi đến con rùa, sau khi đến, đứng một bên nghĩ rằng: khi nào con rùa này thò ra thân phần nào và cổ là thứ năm, ngay tại chỗ ấy, Ta sẽ nắm lấy, bẻ gãy và ăn".

"Nhưng, này các Tỳ Kheo, vì rằng con rùa không thò ra một thân phần nào và cổ là thứ năm. Nên con giã can nhàm chán con rùa bỏ đi, không nắm được cơ hội". Cũng vậy, này các Tỳ Kheo, Ác ma (1) thường xuyên không gián đoạn, đứng trong tư thế rình mò các ngươi với ý nghĩ: " Rất có thể ta nắm được  cơ hội để bắt gặp từ con mắt … từ cái lưỡi…hay từ ý".

"Do vậy, này các Tỳ Kheo, hãy sống hộ trì các căn". (2)

 "Khi mắt thấy sắc, không nắm giữ tướng chúng (3), không nắm giữ tướng riêng  (4). Những nguyên nhân gì vì nhãn căn  không chế ngự, khiến tham ái, ưu bi, các ác bất thiện pháp khởi lên (5), hãy tự chế ngự nguyên nhân ấy, hộ trì nhãn căn, thiệt hành hộ trì nhãn căn. Khi tai nghe tiếng… Mũi ngửi mùi… Lưỡi nếm vị… Thân cảm xúc… Ý nhận thức các pháp, không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng. Những nguyên nhân gì, vì ý căn không được chế ngự, khiến tham ái, ưu bi, các ác bất thiện  pháp khởi lên, hãy chế ngự nguyên nhân ấy, hộ trì ý căn, thiệt hành hộ trì ý căn (6). Này các Tỳ Kheo, khi nào các ngươi sống hộ trì các căn, thời Ác ma nhàm chán các ngươi  và sẽ bỏ đi, không nắm giữ được cơ hội, như con giã can đối với con rùa" .

 Như rùa dấu thân phần,

Cũng vậy, vị Tỳ Kheo.

Không nương tựa một ai (7)

Hoàn toàn đạt tịch tịnh,

Trong mai rùa của nó,

Thâu nhóm mọi tâm tư.

 Không hại một người nào

Không nói xấu một ai.

 

CHÚ THÍCH SƠ LƯỢC

1-Ác ma : Ở đây chỉ cho phiền não trong người luôn luôn rình mò và tìm cách gây ra tai họa cho chúng ta.

2- Các căn : 6 giác quan : mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý là những cơ quan cảm giác.

3- Tướng chung :  Toàn thể của một sự vật, ví dụ một cành hoa hồng toàn diện với hình sắc, mùi thơm v.v..

4- Tướng riêng : Một phần nào đó của một sự vật, ví dụ một tai hoa hồng hay mùi thơm của hoa hồng...

5- Nếu nhãn căn không được chế ngự, không được kiểm soát thì các nguyên nhân hoặc bên trong hoặc bên ngoài có thể làm phát sanh ra tham đắm hình sắc, âm thanh ...v.v...  nếu say đắm không được thỏa mãn thì giận dữ ghét bỏ ; tham giận lúc nào cũng là nhân duyên của lo buồn và các hành động xấu hại cho mình cho người.

6- Sự sống và cảnh sống của loài người  tuy phức tạp song có thể thâu nhóm trong 6 căn : mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý và 6 trần : Sắc, tiếng, mùi, vị, cảm xúc, và pháp. Hộ trì 6 căn khi chúng tiếp xúc với 6 trần tức là hộ trì sự sống  tốt đẹp của mình và của người. Thật ra căn và trần chẳng hề có gì ghê gớm để phải bị chế ngự. Chế ngự ở đây có nghĩa là  chế ngự phiền não ; không để cho phiền não sanh khởi trong lúc 6 căn tiếp xúc với 6 trần. Một khi phiền não tiêu diệt, thì chúng ta vẫn sống với 6 căn và 6 trần song lúc nào cũng được tự tại và an vui.

7- Không nương tựa một ai : Ở đây có nghĩa không nương vào tham sân và tà kiến sẵn có nơi mình đẩ thấy nghe sự vật một cách như thật tức là giác ngộ và giải thoát.

 

 

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
11/08/2011(Xem: 7762)
Tôi với Ni Sư không cùng chung một lớp nhưng lại chung một trường. Thành phố Huế chỉ lớn bằng bàn tay nên dù không quen cũng thành quen, chuyện lớn chuyện nhỏ gì của nhau rồi dần dà cũng biết cả, nhất là Ni Sư lại là một người học trò giỏi nữa. Thuở ấy Ni Sư là một nữ sinh Đồng Khánh áo trắng tóc thề, mắt sáng, da đã trắng mà má lại luôn luôn ửng hồng xinh xắn vô cùng, nên Tôn Nữ Hỷ Khương đã làm tặng Ni Sư mấy câu thơ như sau:
10/08/2011(Xem: 4376)
Câu hỏi có vẻ lẩn thẩn, bởi lẽ từ khi cắp sách đến trường, bắt đầu học lịch sử dân tộc, ai là người Việt Nam mà chẳng biết qua hơn một lần trang sử đời Trần và trang sử Trần Nhân Tông? Ai là người Việt Nam đã không tự hào về những chiến thắng quân Nguyên vẻ vang của dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo tài ba của vị vua anh minh lỗi lạc Trần Nhân Tông?
10/08/2011(Xem: 5214)
Nhân dịp Đại lễ tưởng niệm 700 năm ngày Đức vua - Phật hoàng Trần Nhân Tông nhập Niết bàn, một số website có đăng tin về việc phát hiện “nếp áo Tiểu thừa” trên tượng vua Trần Nhân Tông tại tháp tổ Huệ Quang của tác giả Trần Khánh Linh. Tôi quan tâm đến những chi tiết đã được trình bày sau đây:
10/08/2011(Xem: 5538)
Xuyên suốt lịch sử dân tộc, đã có biết bao nhiêu nhân vật với tư cách là người đứng đầu đất nước đã có những kỳ tích lẫm liệt đối với đất nước. Có nhân vật nổi bật lên trong sự nghiệp giữ nước, có nhân vật nổi lên trong sự nghiệp dựng nước, lại có nhân vật nổi lên trong sự nghiệp mở nước, hoặc có một số nhân vật có cả hai hoặc ba lãnh vực đó.
10/08/2011(Xem: 3938)
Cuộc đời xuất gia của Tổ Trúc Lâm là một cuộc đời hoạt động sôi nổi, tích cực. Ngoài các mùa kết hạ tại các am núi hay các chùa, thời gian còn lại Ngài thường đi vân du hoằng hoá đây đó. Năm 1304, “Điều Ngự đi khắp mọi nẻo thôn quê, khuyên dân phá bỏ các dâm từ [đền miếu thờ các thần sằng bậy] và thực hành giáo lý Thập thiện”. Ngài muốn xây dựng một xã hội trên nền tảng luân lý đạo Phật, góp phần củng cố triều đại thời hoàng kim của mình. Đức Điều Ngự Giác Hoàng Đệ nhất Tổ Trúc Lâm Yên Tử Trần Nhân Tông sinh ngày 11 tháng Mười một năm Mậu Ngọ (tức 7 – XII - 1258). Năm 21 tuổi (1279), Ngài lên ngôi vua, trải qua hai niên hiệu là Thái Bảo và Trùng Hưng.
10/08/2011(Xem: 5070)
Đại lễ tưởng niệm 700 năm Phật hoàng Trần Nhân Tông nhập niết bàn diễn ra từ 25 đến 27.11.2008 tại Quảng Ninh. Trong dịp này, Giáo hội Phật giáo Việt Nam và Tỉnh hội Phật giáo Quảng Ninh sẽ tiến tới đề nghị hàng năm tổ chức tưởng niệm ngày mất của ngài (1.11.1308) như Quốc giỗ của Phật giáo và trình lên UNESCO công nhận Trần Nhân Tông là Danh nhân Văn hóa Thế giới.
10/08/2011(Xem: 4934)
Đã có 92 tham luận của chư Tôn đức Tăng Ni, Phật tử, các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước gửi đến cuộc hội thảo khoa học về cuộc đời và sự nghiệp của Đức vua – Phật hoàng Trần Nhân Tông hôm qua 26-11, tại thị xã Uông Bí (Quảng Ninh).
10/08/2011(Xem: 3998)
Trần Nhân Tông phải được coi là nhân vật kiệt xuất nhất trong lịch trình phong kiến Việt Nam và cũng là nhân vật kiệt xuất nhất trong sơ đồ Phật giáo Việt Nam, một trong những niềm tự hào lớn lao nhất của dân ta.
10/08/2011(Xem: 4921)
Về cuộc đời và sự nghiệp lịch sử, giải thoát của vua Trần Nhân Tông, đã có nhiều công trình biên khảo: Trần Nhân Tông, thiền sư Việt Nam; Trần Nhân Tông, nhà văn hóa; Trần Nhân Tông, nhà thơ; Trần Nhân Tông, nhà quân sự; Trần Nhân Tông, nhà lãnh đạo lỗi lạc; Trần Nhân Tông, nhà tư tưởng... Trong bài khảo luận ngắn này, người viết chỉ đề cập đến một số nét tiêu biểu về Tiểu sử, sở đắc giải thoát và Tư tưởng Phật học của Người.
10/08/2011(Xem: 4348)
Lịch sử dân tộc VN không có nhiều vị vua có được sự ghi chép đầy đủ về sự mến mộ của người dân sau khi đã mất như Vua Trần Nhân Tông. 50 năm cuộc đời, nhà vua để lại bao lưu luyến cho những người đương thời và hậu thế... - nhận định của GS-TS Lê Mạnh Thát - Phó Viện trưởng thường trực Học viện Phật giáo VN tại TPHCM.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567