Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Kinh Bốn Niệm Xứ (Do HT. Thích Thiện Châu giảng giải và Phật tử Diệu Danh diễn đọc)

16/02/202307:02(Xem: 1489)
Kinh Bốn Niệm Xứ (Do HT. Thích Thiện Châu giảng giải và Phật tử Diệu Danh diễn đọc)

Bon-Niem-Xu-01

KINH BỐN NIỆM XỨ

Do HT. THÍCH THIỆN CHÂU giảng giải

Do Phật tử Diệu Danh diễn đọc

 

 

Giới thiệu

 

Bản kinh "Bốn Niệm Xứ"này rút ra từ Tương Ưng Bộ (Samyuttanikaya). So với các kinh cũng nói về Bốn niệm xứ (trường bộ kinh số 22, Trung bộ kinh số 10) thì bản kinh này ngắn và gọn hơn. Giới thiệu bản kinh này, chúng tôi muốn nói lên một sự thật : Bốn niệm xứ hoặc được trình bày chung trong 37 phẩm trợ đạo (Bodhipakkhiya dhamma) hay 8 chánh đạo (Ariya-magga), hoặc được trình bày riêng, như trong bảng kinh này, là phương pháp tu dưỡng vừa căn bản vừa phổ biến – căn bản vì do chính Phật Tổ Thích Ca thuyết minh, phổ biến vì được tất cả bộ phái từ Thượng tọa bộ (Theravada) cho đến Thiền tông (Ch´1an, Zen) hành trì; trong khi đó phương pháp niệm A Di Đà cầu sanh Cực Lạc chỉ được một số thuộc Phật giáo Phát triển ở Việt Nam, Trung Quốc, Nhật Bản thực hành, phương pháp niệm kinh Diệu Pháp Liên Hoa chỉ được một số tông phái Nhật Liên (Nichiren) ở Nhật bản thực hành, phương pháp niệm thần chú (Mantra) Um-mani-padmehum chỉ được một số theo Mật tông ở Tây Tạng hay Bắc tông thực hành.

Phương pháp bốn niệm xứ này được Phật Tổ thuyết minh trong bốn điều quán niệm: 1) Quán niệm về thân thể  2) Quán niệm về cảm thọ, 3) Quán niệm về tâm ý, 4) Quán niệm về các pháp.

Phương pháp này giúp người tu thiền đạt được trí tuệ, thấy rõ sự thật: 1) Nơi thân là "Bất tịnh“, 2) Cảm thọ là " khổ", 3) Tâm là "Vô thường", và 4) Pháp là "Vô ngã", và do đó giải thoát tự tại với cuộc đời.

Phật Tổ xem phương pháp bốn niệm xứ này như là "con đường duy nhất khiến các loài hữu tình được thanh tịnh, chế ngự sầu bi, tiêu trừ khổ ưu, thông ngộ chân lý, chứng đạt Niết bàn".

Một khi chính Phật Tổ đã minh xác đây là "con đường duy nhất đưa đến Niết Bàn" thì Phật tử cũng không cần mà cũng không nên phát minh con đường tắt dễ đi nào khác nếu muốn giác ngộ, giải thoát như Phật Tổ.


 

Bon-Niem-Xu-02

 

 


Chánh Kinh

 

 

Tôi nghe như vầy:

 

Một thời Thế Tôn ở tại Vesali (1  )trong rừng Ambapali (2).

 

Tại đây, Thế Tôn gọi các Tỳ Kheo: "Này các Tỳ Kheo"!

 

-"Bạch Thế Tôn", các Tỳ Kheo ấy đáp Thế Tôn.

 

Rồi Thế Tôn nói như sau:

 

-Này các Tỳ Kheo, có con đường (3) khiến các loài hữu tình được thanh tịnh, chế ngự sầu bi, tiêu trừ khổ ưu, thông ngộ chân lý(4), chứng đạt Niết bàn(5) Ấy là bốn niệm xứ (Satipatthana)(6).

 

Những gì là bốn?

 

Các Tỳ Kheo, ở đây, Tỳ Kheo quán niệm(6) về thân thể(7), cảm thọ(8), tâm(9), pháp(10), dũng mãnh, tỉnh giác, chánh niệm, điều phục tham ưu trong đời.

 

Này các Tỳ Kheo, con đường duy nhất này khiến các loại hữu tình được thanh tịnh, chế ngự sầu bi, tiêu diệt khổ ưu, thông ngộ chơn lý, chứng đạt Niết bàn. Ấy là bốn niệm xứ.

 

Thế Tôn thuyết giảng như vậy, các Tỳ Kheo ấy hoan hỷ thọ lời Thế Tôn dạy.

 

 

Chú ý sơ lược

 

(1 )Vesali: nay là tỉnh Besarh, ở phía Bắc Ấn Độ nhưng dân cư thưa thớt. Đại hội Phật giáo lần thứ hai sau khi Phật viên tịch được tổ chức tại đây để xét lại những điểm sai khác với giới luật.

(2) Ambapali: một phụ nữ ăn chơi sau được Phật hóa độ và cúng rừng xoài cho Giáo hội. Phật thuyết kinh Bốn Niệm Xứ ở đó.

(3) Con đường duy nhất (Ekayanomagga): Đạo Phật nguyên thủy không hề chia ra Tiểu thừa, Đại thừa, Tối thượng thừa. Chính Phật tuyên bố trong kinh Chuyển Pháp Luân rằng do không ngộ bốn chân lý cao cả mà Phật mới tự nhận là đã thành Phật.

Vì thế con đường duy nhất ở đây không có nghĩa cao thấp, so với các phương pháp tu dưỡng khác, mà là con đường đứng đắn dẫn tới Niết bàn. Về sau vì có sự cạnh tranh giữa các bộ phái nên những danh từ "Tiểu thừa, Đại thừa, Tối thượng thừa" mới được ra đời và áp dụng cho tới ngày nay.

(4) Thông ngộ Chân lý ở đây chỉ cho sự hiểu biết và thực hành đúng theo chánh đạo.

(5) Theo kinh Đại Niệm Xứ (Maha Satipatthana) thì nếu tu dưỡng theo phương pháp Bốn niệm xứ trong thời gian 7 năm hoặc 7 tháng người tu thiền có thể ngay trong hiện tại: 1) Thành tựu chánh trí, 2) Chứng quả Bất hoàn (A na hàm-Anagami), và sau khi chết sanh về Tịnh độ (Suddhavasa) và ở đó thì chứng được Niết bàn.

(6) Bốn niệm xứ (Satipatthana): Bốn phương thức áp dụng chánh niệm hay quán niệm.

(7) Quán niệm về thân thể hay thân trên thân nghĩa là quán niệm: hơi thở, động tác, thành phần vật chất nơi thân, phân tích bốn yếu tố (tứ đại) nơi thân, quán niệm về thân thể nơi bãi tha ma.

(8) Quán niệm về cảm thọ hay thọ trên các cảm thọ nghĩa là quán niệm cảm thọ vui, không vui, trung tính nơi thân và tâm.

(9) Quán niệm về tâm ý hay tâm trên tâm nghĩa là quán niệm nơi tâm có hay không có tham, sân, si,,,

(10) Quán niệm về các pháp hay đối tượng tâm ý nghĩa là quán niệm sự có mặt hay không có mặt của 5 triển cái: ái dục, sân hận, thụy miên, trạo hối, nghi và của 7 giác chi: niệm, trạch pháp, tinh tấn, hỷ, khinh an, định, xả, hay quán niệm theo bốn chơn lý cao cả

 

(cố HT.Thích Thiện Châu 1931-1998, tại thiền viện Trúc Lâm Paris)

 

 buddha-505

Lời kinh

trong lòng bàn tay

 

Nhứt tâm, khéo định tĩnh,

Trong sáng, không cấu uế,

Nhu thuận mọi chúng sanh,

Con đường đạt tối thượng

               (Tương Ưng Bộ Kinh IV)

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/06/2023(Xem: 4217)
Chùa Sắc Tứ Kim Sơn Nha Trang tổ chức Lễ Hiệp Kỵ lần 56 Chư Tôn Đức & Quý Phật tử hy sinh vì lý tưởng phụng sự xã hội ngày 10/6/2023
09/06/2023(Xem: 3132)
Người anh tôi đang thưa chuyện tên là Lê Hùng Anh một thời ở chùa Viên Giác, Hội An. Hai anh em chúng tôi ăn chung, ngủ chung. Phòng ăn là hai chiếc bàn học dài nối nhau nhìn ra giếng nước sau chùa. Ngồi theo thứ tự tuổi tác nên tôi luôn ngồi phía bên trái anh mỗi bữa ăn. Anh em ngủ chung trong căn phòng nhỏ dành cho các học sinh ở phía cuối nhà đông. Anh lớn hơn tôi vài tuổi và mạnh khỏe nên gánh nước tưới rau. Tôi nhỏ hơn anh và ốm yếu nên quét lá, đánh chuông, lau bàn ghế.
01/06/2023(Xem: 8044)
Ôn Tuệ Sỹ là một bậc cao Tăng thạc đức của Phật Giáo Việt Nam đã và đang cống hiến trọn đời mình cho công cuộc hoằng Pháp lợi sinh. Từ đầu những năm 70 thế kỷ trước, là một trí giả Phật giáo uyên thâm, Ngài được đặc cách bổ nhiệm là Giáo sư thực thụ Viện Đại học Vạn Hạnh và là Chủ bút của tạp chí Tư Tưởng do Viện Đại học Vạn Hạnh phát hành. Ngài là tác giả, dịch giả nhiều bộ sách biên khảo quan trọng đặc sắc về Phật giáo, Văn học, Triết học, Thơ ca như Thiền Luận Suzuki, Tinh Hoa Triết Học Phật Giáo; nhất là các bản dịch giá trị để lại cho đời như: A-tỳ-đạt-ma Câu-xá Luận (trọn bộ 5 tập), Các Tông Phái Phật giáo, Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết, Luận Thành Duy Thức, các bộ Kinh Trường A Hàm, Trung A Hàm, Tạp A-hàm và Tăng Nhất A-hàm, v.v...
31/05/2023(Xem: 3057)
Cố Hương tiễn bước thong Dong, Tịch nhiên xã báo, sắc không trở về. Chơn tâm nối gót Bồ đề, Dung nghi tướng Phật, nguyện thề Vân Du.
25/05/2023(Xem: 5146)
Hạnh Đoan một dạ hướng an thiền Tu tập tinh cần kết thiện duyên Nhập thất trì kinh nuôi ước nguyện Bế môn lễ Phật dưỡng tâm nguyền Âm thầm chuyển ngữ truyện nhân quả Lặng lẽ ghi lời sách hoá duyên Viên Chiếu một thời lưu dấu ấn Ngày về cảnh Phật ngát hương liên..!
23/05/2023(Xem: 2785)
32- Tiểu Sử Thượng Toạ Thích Minh Phát 1956-1996
07/05/2023(Xem: 2325)
Hòa thượng Giác Quang – thế danh là Đàm Hữu Phước, sinh ngày 30/4/1947 (nhằm ngày 10/3 âm lịch, năm Đinh Hợi) tại ấp Mỹ Thạnh, xã Hòa Định, huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang. Hòa thượng sinh ra trong một gia đình đạo đức gia phong, thân phụ là cụ ông Đàm Hữu Lượng – một y sĩ đức độ nhân từ, thân mẫu là cụ bà Võ Thư Tư – một nhà giáo lương hiền phúc hậu, được dân làng trân trọng và kính quý.
04/05/2023(Xem: 3733)
Cáo Bạch Tang Lễ Sư Cô Thích Nữ Giác Trí (1948-2023) tại Tự Viện Pháp Bảo, Sydney, Úc Châu
03/05/2023(Xem: 4369)
Trường Sức khỏe Cộng đồng T.H. Chan thuộc Đại học Harvard hôm 26/4 vừa thành lập Trung tâm Chánh niệm Thích Nhất Hạnh với một hội nghị chuyên đề có sự tham gia của các thiền sư và học giả trên khắp thế giới, trong đó có các đại đệ tử của cố Thiền sư Thích Nhất Hạnh. Sứ mạng của trung tâm này là ‘giúp cho con người trên khắp thế giới sống có mục đích, sống thanh thản, sống yêu đời thông qua thực hành chánh niệm’; thực hiện các phương cách thực chứng để cải thiện sức khỏe và sự an lạc thông qua chánh niệm và giáo dục công chúng về chánh niệm, thông cáo báo chí của Đại học Harvard cho biết.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]