Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tưởng Niệm Ân Sư, Cố Hòa Thượng Thích Phước Đường (1932-2017)

14/02/202319:16(Xem: 1391)
Tưởng Niệm Ân Sư, Cố Hòa Thượng Thích Phước Đường (1932-2017)


Tưởng Niệm Ân Sư
Cố Hòa Thượng Thích Phước Đường
(1932-2017)

 

 ht phuoc duong

 

Nam Mô Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật

 

Kính Giác linh Thầy

Con về đến Trúc Lâm thứ ba, trưa ngày 18.7. 2017 trời nắng gắt, hình bóng Thầy đâu không thấy chỉ thấy hai chiếc xe hoa đã kết sẵn để đưa Thầy đến nơi làm lễ Trà Tỳ, tim con như tan nát thành mảnh vỡ. Trời ơi! Có thể như vậy được sao? Suốt quãng đường dài từ Đức qua Pháp con chỉ mong sao đây không phải là sự thực, con không muốn tin dẫu biết rằng thế gian vô thường, tất cả rồi sẽ tan hòa vào vũ trụ.

Con vội vã lên thiền đường để kính lễ Giác Linh Thầy, chân con run rẩy con đi không vững nữa. Thầy nằm đó an nhiên, tự tại nét mặt hiền hòa. Con quỳ xuống bên Thầy đảnh lễ, nước mắt con tuôn trào.

Quanh chùa đông người sao vắng lặng trong con, đâu đâu con cũng thầy hình bóng Thầy, sáng thật sớm 3 giờ Thầy dậy tụng kinh, 6 giờ điểm tâm rồi Thầy về liêu phòng nghỉ chút xíu tới 7 giờ Thầy xách từng bình tưới thật to tưới từng cây cỏ từ sân chùa đến đỉnh đồi trong yên lặng, có lẽ Thầy nói chuyện nâng niu cỏ cây, sau đó khoảng 10 giờ Thầy tới tháp Địa Tạng chú nguyện cho từng hũ cốt hương linh ở chùa, Thầy thầm lặng trong chánh định rải tâm từ bi đi khắp mọi nơi….

Một ngày một đêm ở chùa con chỉ muốn đi nhiễu quanh kim quang Thầy để niệm Phật, con chỉ muốn ở bên Thầy cho trọn vẹn nhưng rồi con nghĩ, con phải tôn trọng khách đến viếng Giác Linh Thầy như trong chùa đã định, giữ sự trang nghiêm chỉ mười người được viếng rồi lui ra.


ht phuoc duong-2

 Hòa Thượng Thích Phước Đường đã thuận thế vô thường, thâu thần viên tịch vào lúc 18 giờ 53 phút ngày 12-7-2017 (nhằm ngày 19-6-Đinh Dậu) tại thiền viện Trúc Lâm Paris, số 9 Rue Neuchatel, 91140 Villebon / Yvette, Paris (Pháp). Trụ thế: 85 năm; Hạ lạp: 49 năm. Lễ nhập kim quan cử hành vào ngày 14-7-2017 (nhằm ngày 20-6-Đinh Dậu). Kim quan Hòa thượng được tôn trí tại thiền viện Trúc Lâm Paris. Lễ viếng từ ngày 14 đến hết 18-7-2017 (21 đến 25-6-Đinh Dậu). Lễ Trà-tỳ được cử hành vào ngày 19-7-2017 (26-6-Đinh Dậu).



Buổi tối con lên tháp A Nan Đà để ngủ, ngang qua phòng Thầy cửa đã khép kín, con nghẹn ngào muốn khóc, nhớ hôm nào đến thăm Thầy, Thầy đã gọi con vào phòng và cho con bức tượng Quán Thế Âm Thầy mang từ Việt Nam về, Thầy nhắn nhủ dạy con rằng con nương theo hạnh Quán Thế Âm giúp những ai cần đến theo tiếng kêu cầu và Thầy rất vui khi biết con thường làm các việc thiện lành. Thầy kể con nghe ngày còn sa di Thầy vất vả khá nhiều nhưng lòng vẫn vui  vì đó là hạnh nguyện, Thầy kể những ngày làm thư ký cho hãng xì dầu do Pháp Sư Giác Đức sáng lập để nuôi học chúng…

Cả đêm trằn trọc con nghĩ tới Thầy, hơn năm trời con trôi nổi theo dòng đời, theo các việc thiện nguyện, nhiều lần nhớ tới Thầy con điện thoại thăm mà không được, con hối hận đã không để thời gian ra viết thư thăm Thầy như những năm về trước nếu như con không điện thoại được, dù lúc nào con cũng nghĩ tới Thầy với một lòng thương kính.

Con còn nhớ có lần con sắp đi làm ca đêm, 9 giờ tối Thầy gọi dt cho con nói „Diệu Danh tối nay lạnh, con đi làm mặc áo ấm, nhớ tới con làm đêm Thầy viết cho con bài thơ, rồi Thầy đọc con nghe:

 

VẪN CÒN

Người đi về giữa khuya

Phố xá im như chết

Lo loét đèn ai kia?

Gánh quà đêm chưa hết

Lạnh ướt sương đầm đìa

Văng vẳng đâu tiếng ếch

Người đi về giữa khuya

Bóng trên đường lẻ chiếc

Ngẩng đầu ngó trời kia

Còn ngấn trăng soi biếc

 

Trời ơi, con đã khóc thật nhiều lòng từ của Thầy cho con nhiều quá! Thầy nhìn con qua hình ảnh người đàn bà Việt Nam cực khổ, nhẫn nhịn, gánh hàng đêm để nuôi con ăn học, phụ giúp chồng gánh vác giang san nhỏ bé của gia đình vò võ ban đêm với gánh hàng chưa bán hết. Con bên này giữa đêm trường, một mình lái xe hơi, trời mùa đông giá lạnh với sương mù vây phủ chỉ nghe trên đường tiếng bánh xe con lăn, con ngậm ngùi, mùa đông trời xứ Đức không có trăng chỉ có màn đêm dầy đặc nhiều khi con nghĩ mình lẻ loi, quờ quạng trong sương mù, nhưng con đã có Thầy soi sáng tâm linh cho con. Pháp thân Thầy tỏa chiếu, lòng từ bi Thầy vô lượng vô biên un đúc cho con hạnh lành mà con ráng đời này gieo chút nhân lành, con quên cả những nhọc nhằn trong đời sống.

 Thầy ơi! Giờ con hiểu ra ngấn trăng soi biếc là pháp thân Thầy, là tình thương của vị Thầy đã dành cho đệ tử mình. Thầy ơi! Từ nay con không còn Thầy nữa, con một mình lẻ loi, không còn ai nhắc nhở con mặc áo ấm, nuôi các cháu ăn học, hiếu thảo với Mẹ Cha, sống nương theo đời nhưng luôn giữ cho mình giới hạnh- Trước Giác linh Thầy con hứa đời đời kiếp kiếp tu hạnh lành, làm điều lành để không phụ ân Thầy đã dưỡng dạy con.

Thầy ra đi nhằm mùa An Cư Kiết Hạ của Chư Tăng, cửu tuần nhiếp tâm tu học, nhơn nhơn tấn đạo nghiêm thân, huân tu tứ hoằng thệ nguyện, xứ xứ đàn na hộ pháp, hộ đạo, trợ duyên, cận đáo thời tự tứ, ngưỡng báo đáp Phật ân, chư Tăng thúc liễm thân tâm, sách tấn đồng tu, nghiêm trì luật tạng, gìn giữ thanh quy, nêu cao tinh thần lục hòa cộng trụ, thường hành giới, định, huệ trang nghiêm, tấn tu đạo nghiệp và tam vô lậu học, trì kinh nhị khóa công phu nhằm hồi hướng Thượng báo trọng ân, Hạ tế tam đồ khổ.

Là Phật tử con nguyện nhất tâm tu trì để đáp đền ơn trong muôn một của Chư Phật và „báo nghĩa ân sư huấn dục chỉ thâm ân, đáp tình Phụ Mẫu sinh thành chi hiếu đạo“.

„Ân giáo dưỡng một đời nên huệ mạng.

Nghĩa Tôn Sư muôn kiếp khó đáp đền“

Dù là một chữ cũng Thầy

Dù là nửa chữ cũng đầy ân sâu

Mai này vào cuộc biển sâu

Lời Thầy là những hạt châu soi đường



ht phuoc duong-4ht phuoc duong-3ht phuoc duong-2ht phuoc duong-1


 

Bạch Thầy,

Con nhớ nhiều quá, nhớ lần ghé thăm Thầy có anh chị Tôn Hoa, dì Tiết, dì Minh, chị Bảo, sáng dậy, con định đảnh lễ Thầy để về lại Đức, Thầy gọi con lại rồi hỏi: „Diệu Danh, con nói Thầy nghe 14 lời Phật dạy“ . Mô Phật Thầy ơi, con đã không trả lời được, con chỉ nhớ mỗi điều 14 nhưng rồi không dám trả lời. Thầy nhìn con rồi nói: „ Thầy cho con bao nhiêu lời dạy của Đức Phật cũng không đủ, con còn đi xin thêm rồi cho người khác, giờ Thầy hỏi con không biết“  thế rồi Thầy bắt con đứng lại đọc 14 lời Phật dạy trên tấm bảng có sẵn cho Thầy nghe, mọi người nhìn con, con mắc cỡ cúi đầu xuống và đọc từng câu:

 

  • Kẻ thù lớn nhất của đời người là chính mình
  • Ngu dốt lớn nhất của đời người là dối trá
  • Thất bại lớn nhất của đời người là tự đại
  • Bi ai lớn nhất của đời người là ghen tị
  • Sai lầm lớn nhất của đời người là đánh mất mình
  • Tội lỗi lớn nhất của đời người là bất hiếu
  • Đáng thương lớn nhất của đời người là tự ti
  • Khâm phục lớn nhất của đời người là vươn lên sau khi ngã
  • Phá sản lớn nhất của đời người là tuyệt vọng
  • Tài sản lớn nhất của đời người là sức khỏe, trí tuệ
  • Món nợ lớn nhất của đời người là tình cảm
  • Lễ vật lớn nhất của đời người là sự khoan dung
  • Khiếm khuyết lớn nhất của đời người là kém hiểu biết
  • An ủi lớn nhất của đời người là bố thí


Thầy kính! Con biết, con biết vì thương con nên Thầy nhắc nhở con học những lời dạy cao quý của Đức Phật áp dụng cho đời sống mà con đang sống, con hiểu Thầy dạy con „cho người những cái mà mình đã có và đã hiểu, làm việc gì cũng do từ tâm, trong chính niệm, con biết Thầy tình thương Thầy dạy dỗ con rất nhiều, dù chỉ qua ánh mắt.

Rồi khi Thầy thấy cô Minh cho con quả lê con cầm, Thầy lại rầy con: „con đã có rồi, có nhiều nhất Thầy cho con trước nhất vậy mà cô Minh cho con cũng cầm, may mà có Thầy ở đây con còn làm như vậy…“ con đâu dám cãi, nhưng từ trong đáy lòng con nhận quả lê cho cô Minh vui, cô nói với con cô bị bệnh đường không ăn được. Con rất vui và cảm động trước sự giáo huấn của Thầy như đấng từ phụ mà Thầy dành cho con.

 

Thứ tư, 19.7

Ba hồi trống Bát Nhã vang lên, Nhà đòn đã đến đóng kim quang Thầy, con nấc nở nghẹn ngào, thế là từ con không còn nhìn thấy bóng dáng từ hòa của Thầy nữa, con lẳng lặng theo sau Tăng Đoàn, và hàng Phật Tử niệm A Di Đà, bao nhiêu cánh hoa được tung lên để cúng dường Thầy, như Trời rưới hoa Mạn Đà và rồi bài thơ năm nào Thầy viết cho Sư Bác lại hiện về trong trí con rõ ràng, ngời sáng hình ảnh hiện ra như trước mắt con

 

Bóng Thầy

 

Ba hồi chuông trống vút lên mây

Chín phẩm liên hoa nở đón Thầy

Nắng đẹp Trung Thu rằm tháng Tám

Linh quang chiếu diệu sáng trời Tây

 

Chim ở quanh đồi trổi diệu âm

Gió theo nhập thất quyện hương trầm

Bóng Thầy cao ngự mây năm sắc

Vang dội lời vàng sáng đạo tâm.

 

Như chuyến vân du Thầy nhẹ bước

Ngàn tay lá trúc bái ân thâm

Ngàn tay Phật tử cùng uy đúc

Mãi mãi hưng Thiền viện Trúc Lâm

(Thích Phước Đường)

 

 và rồi con không khóc nữa, con hiểu Thầy đã vân du theo Đức Phật, ngày 19.6 vía Quán Thế Âm Bồ Tát như hạnh nguyện của Thầy xuống trần gian để hóa độ chúng sanh. Bầu trời trước đó chuyển mưa âm u vần vũ, nhưng khi linh quang Thầy ra đến cổng trời rực sáng, như hào quang của Chư Phật đón Thầy về để rồi Thầy sẽ trở lại Ta Bà như lời Thầy hứa khả hóa độ chúng sanh.

 

 

Kính dâng lên Giác Linh HT thượng Phước hạ Đường        

 

12.7.2017 rừng núi thiêng rung động

Những người con cung kính chấp tay chào

Tiễn đưa Thầy về Cực Lạc Quê Hương

Ơn cứu độ muôn loài cùng thương tiếc

Trên hư không Thầy vẫy tay từ ái

« Hỡi các con, lắng nghe lời ta dạy

Ta trở về chuyển hóa khắp muôn phương

Hóa thân ta sẽ đi khắp mọi miền

Hạt bụi nhỏ vẫn vương lời kinh tụng

Thân tứ đại nay trở về trong vũ trụ

Không gian này còn vang mãi pháp âm

12.7 miền Tịnh Độ an vui

Hoa sen nở tung bay miền Cực Lạc

Đón vui Thầy trở lại với Quê Hương

85 năm trụ đời, 54 năm hạ lạp

Pháp nhiệm màu Thầy rải khắp muôn phương

Lời kinh Phật chuyển lưu đời nhân thế

Thầy đã trở về trong hào quang rực rỡ

Chuyển hóa đời trong dòng điệu luân lưu

Ơn hóa độ Thầy ban chúng con xin ghi tạc

Dụng lời kinh chuyển hóa niệm bình an

Nam Mô Từ Phụ Di Đà

Pháp lành mầu nhiệm con dâng cúng dường

Thành tâm đảnh lễ Mười Phương

Hoa thơm lan ngát chân như diệu thường

 

Sáng nay con đi thiền hành vào rừng nơi gần nhà con ở, con đã ngắt từng cánh hoa mà con vừa cúng dường Đức Quán Thế Âm xong, con vừa đi vừa rải tung bên hai hàng cây để rồi lại cúng dường Giác Linh Thầy, trời nắng gắt nhưng có những làn gió nhè nhẹ thổi khiến tâm hồn con dễ chịu, con vừa đi vừa nhớ tới lời Đức Phật nói với ngài Anuradha:

-Này Anuradha, con nghĩ sao cái gì không có sắc, thọ, tưởng, hành và thức có phải là Như Lai không?

-Thưa không, Bạch Thế Tôn

-Này Anuradha, vì không tìm thấy Như Lai trong đời sống này, con có thể nói như thế này không: Đấng cao quý và tối thượng đã nhấn mạnh và giải thích bốn mệnh đề sau đây:

Một Như Lai hiện hữu sau khi nhập diệt

Một Như Lai không hiện hữu sau khi nhập diệt

Một Như Lai hiện hữu và không hiện hữu sai khi nhập diệt

Một Như Lai chẳng có mà cũng chẳng không có sau khi nhập diệt?

Thưa không, Bạch Thế Tôn

Lành thay! Anuradha. Trước đây và bây giờ cũng vậy, ta chỉ giải thích và nhấn mạnh chân lý của khổ đau và sự chấm dứt khổ đau.

 

Con thấy Thầy hiện ra trong con, trong tất cả, Pháp Thân Thầy là bài kinh vi diệu của lòng từ mẫn mà con phải kính thành đảnh lễ, những cánh hoa con trải để cúng dường Thầy tung bay khắp nơi, như những hạt giống lành mà Thầy đã gieo trồng cho hàng Phật tử chúng con.

 

Màu nhiệm thay! màu nhiệm thay!

Từng cánh sen nở! từng búp sen nở!

Ánh hào quang rực rỡ chiếu muôn phương

Đức Phật đó A Di Đà thân kim sắc

Cùng Đức Quán Âm, Ngài Thế Chí theo cùng

Biết bao Bồ Tát hiện thân

Rước người về đó chốn lành an vui

Nam Mô niệm Phật Di Đà

Cho Người cõi thế chan hòa niềm vui

Đâu đâu cũng tiếng nhạc trời

Ta Bà Tịnh Độ khắp nơi an lành

Chấp tay con quì xuống

Dòng nước mắt tuôn rơi

Nam Mô Từ Phụ Di Đà

Cha lành độ khắp muôn loài chúng sanh

Hôm nay con phát nguyện rằng

 Lòng thương rộng mở khắp cùng nhân gian

 

Con thành kính cúi đầu đảnh lễ và nhất tâm cầu nguyện Giác Linh Cố Trưởng Lão Hòa Thượng Thượng Phước Hạ Đường

Một tánh linh minh,

Tây Phương trực vãng

Ba thân thanh tịnh,

Chánh giác vị thành

Chứng pháp nhẫn vô sanh

Ngộ chơn thừa đại định

 

Ngưỡng nguyện Giác Linh Hòa Thượng cao đăng Phật quốc, bất vong nguyện lực, tái hiện đàm hoa, thể nhập Ta Bà, tồi tà phụ chánh, ứng hóa dộ sanh, khứ lai tự tại.

Thành tâm xin Giác Linh Ân Sư chứng giám

Đệ tử kính bái,

Diệu Danh

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/11/2010(Xem: 757)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
01/11/2010(Xem: 33694)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
29/10/2010(Xem: 4669)
Kể từ khi vết tích của chùa Thiên Mụ được ghi lại đơn sơ trong sách Ô Châu Cận Lục vào năm 1553 (1), chùa đã tồn tại gần 450 năm cho đến ngày nay. Trải qua bao nhiêu cuộc bể dâu, chùa vẫn giữ được địa vị và vẫn đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống đạo và đời của dân Huế, nói riêng, và của dân cả nước, nói chung. Qua đầu thế kỷ 17, chùa đã thực sự đi vào lịch sử sau khi Nguyễn Hoàng vào xứ đàng trong để gây dựng cơ nghiệp đế vương với huyền thoại “bà tiên mặc áo đỏ” (9).
23/10/2010(Xem: 4637)
Trong Cây Có Hoa Trong Đá Có Lửa Kính Dâng Hòa Thượng Thích Như Điển nhân dịp mừng thọ 70 tuổi của Ngài và kỷ niệm 40 năm khai sơn Chùa Viên Giác tại Đức Quốc Tỳ Kheo Thích Nguyên Tạng “Trong Cây Có Hoa, Trong Đá Có Lửa” là lời pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên do Hòa Thượng Thích Như Điển nhắc lại trong thời giảng Pháp của Ngài mà tôi đã nghe được khi theo hầu Ngài trong chuyến đi Hoằng Pháp tại Hoa Kỳ năm 2006. Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen) là người Nhật, Ngài sinh năm 1200 và tịch năm 1253, thọ 53 tuổi. Ngài là Sáng Tổ của của Soto-Zen (Thiền Tào Động) của Nhật Bản, và là tác giả bộ sách nổi tiếng “Chánh Pháp Nhãn Tạng” “Ki no naka ni, hana ga aru (Trong cây có hoa), Ishi no naka ni, hi ga aru (Trong đá có lửa)” Đó là pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen), được Hòa Thượng Như Điển dịch sang lời Việt. Lời thơ quá tuyệt vời, tuy ngắn gọn nhưng dung chứa cả một kho tàng giáo lý về Nhân Duyên Quả của Đạo Phật.
23/10/2010(Xem: 4597)
Trong mười thế kỷ phong kiến Việt Nam, Trần Nhân Tông là một trong những ông vua giỏi và tài hoa bậc nhất. Lịch sử đã xem ông là “vị vua hiền” đời Trần, có công lớn trong sự nghiệp trùng hưng đất nước. Văn học sẽ nhớ mãi ông bởi những vần thơ thanh nhã, sâu sắc và không kém hào hùng.
23/10/2010(Xem: 4556)
Về sự nghiệp của vua Trần Nhân Tông, đã có rất nhiều tài liệu và bài viết về hai lần lãnh đạo quân dân nước ta đánh thắng giặc Mông - Nguyên, trị quốc an dân, đối ngoại và mở cõi, nên ở đây chúng tôi không lặp lại nữa, mà chỉ đề cập đôi nét đến nội dung khác về: Trần Nhân Tông - một hoàng đế xuất gia, một thiền sư đắc đạo và là sơ tổ lập nên dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử độc đáo của Việt Nam.
23/10/2010(Xem: 4876)
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa. Bác sĩ Nguyễn Văn Khỏe, một cây cột trụ của hội Lưỡng Xuyên Phật Học cũ đảm nhận trách vụ hội trưởng. Ông Mai Thọ Truyền giữ trách vụ tổng thư ký. Các thiền sư Quảng Minh và Nhật Liên đã triệt để ủng hộ cho việc tổ chức hội Phật Học Nam Việt. Thiền sư Quảng Minh được bầu làm hội trưởng của hội bắt đầu từ năm 1952. Năm 1955, sau khi thiền sư Quảng Minh đi Nhật du học, ông Mai Thọ Truyền giữ chức vụ hội trưởng. Chức vụ này ông giữ cho đến năm 1973, khi ông mất. Hội Phật Học Nam Việt được thành lập do nghị định của Thủ Hiến Nam Việt ký ngày 19.9.1950. Bản tuyên cáo của hội có nói đến nguyện vọng thống nhất các đoàn thể Phật giáo trong nước. Bản tuyên cáo viết: "Đề xướng việc lập hội Phật học này. Chúng tôi còn có cái thâm ý đi đến chỗ Bắc Trung Nam sẽ bắt tay trên nguyên tắc cũng như trong hành động. Sự
23/10/2010(Xem: 4604)
Cư sĩ Mai Thọ Truyền sinh ngày 01-4-1905 tại làng Long Mỹ, tỉnh Bến Tre trong một gia đình trung lưu. Thuở nhỏ ông được theo học tại trường Sơ học Pháp - Việt Bến Tre, rồi Trung học Mỹ Tho, và Chasseloup Laubat Saigon. Năm 1924, ông thi đậu Thư ký Hành chánh và được bổ đi làm việc tại Sài Gòn, Hà Tiên, Chợ Lớn. Năm 1931, ông thi đậu Tri huyện và đã tùng sự tại Sài Gòn, Trà Vinh, Long Xuyên và Sa Đéc. Hành nhiệm ở đâu cũng tỏ ra liêm khiết, chính trực và đức độ, không xu nịnh cấp trên, hà hiếp dân chúng, nên được quý mến.
23/10/2010(Xem: 7544)
Trong lịch sử dựng nước, giữ nước và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc của dân tộc Việt Nam, vương triều Trần (1226-1400) được tôn vinh là triều đại sáng chói nhất thể hiện qua những chiến công hiển hách thắng giặc ngoại xâm cũng như chính sách hộ quốc an dân đã tổng hợp được sức mạnh của toàn dân ta cùng với vua quan trong việc bảo vệ và phát triển đất nước vô cùng tốt đẹp.
23/10/2010(Xem: 8588)
Nhiều thế kỷ trước, một vị vua đã lãnh đạo dân tộc Việt Nam hai lần đẩy lui quân Mông Cổ xâm lăng. Một hôm, vào năm 1293, vị vua anh hùng này đã rời ngôi vua, và vài năm sau trở thành một nhà sư và đã để lại một di sản Thiền Tông bây giờ vẫn còn phát triển để trở thành dòng Thiền lớn nhất tại Việt Nam. Ngài tên là Trần Nhân Tông, vị vua thứ ba của Nhà Trần và là vị sáng lập Dòng Thiền Trúc Lâm.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567