Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tưởng Niệm Ân Sư, Cố Hòa Thượng Thích Phước Đường (1932-2017)

14/02/202319:16(Xem: 2304)
Tưởng Niệm Ân Sư, Cố Hòa Thượng Thích Phước Đường (1932-2017)


Tưởng Niệm Ân Sư
Cố Hòa Thượng Thích Phước Đường
(1932-2017)

 

 ht phuoc duong

 

Nam Mô Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật

 

Kính Giác linh Thầy

Con về đến Trúc Lâm thứ ba, trưa ngày 18.7. 2017 trời nắng gắt, hình bóng Thầy đâu không thấy chỉ thấy hai chiếc xe hoa đã kết sẵn để đưa Thầy đến nơi làm lễ Trà Tỳ, tim con như tan nát thành mảnh vỡ. Trời ơi! Có thể như vậy được sao? Suốt quãng đường dài từ Đức qua Pháp con chỉ mong sao đây không phải là sự thực, con không muốn tin dẫu biết rằng thế gian vô thường, tất cả rồi sẽ tan hòa vào vũ trụ.

Con vội vã lên thiền đường để kính lễ Giác Linh Thầy, chân con run rẩy con đi không vững nữa. Thầy nằm đó an nhiên, tự tại nét mặt hiền hòa. Con quỳ xuống bên Thầy đảnh lễ, nước mắt con tuôn trào.

Quanh chùa đông người sao vắng lặng trong con, đâu đâu con cũng thầy hình bóng Thầy, sáng thật sớm 3 giờ Thầy dậy tụng kinh, 6 giờ điểm tâm rồi Thầy về liêu phòng nghỉ chút xíu tới 7 giờ Thầy xách từng bình tưới thật to tưới từng cây cỏ từ sân chùa đến đỉnh đồi trong yên lặng, có lẽ Thầy nói chuyện nâng niu cỏ cây, sau đó khoảng 10 giờ Thầy tới tháp Địa Tạng chú nguyện cho từng hũ cốt hương linh ở chùa, Thầy thầm lặng trong chánh định rải tâm từ bi đi khắp mọi nơi….

Một ngày một đêm ở chùa con chỉ muốn đi nhiễu quanh kim quang Thầy để niệm Phật, con chỉ muốn ở bên Thầy cho trọn vẹn nhưng rồi con nghĩ, con phải tôn trọng khách đến viếng Giác Linh Thầy như trong chùa đã định, giữ sự trang nghiêm chỉ mười người được viếng rồi lui ra.


ht phuoc duong-2

 Hòa Thượng Thích Phước Đường đã thuận thế vô thường, thâu thần viên tịch vào lúc 18 giờ 53 phút ngày 12-7-2017 (nhằm ngày 19-6-Đinh Dậu) tại thiền viện Trúc Lâm Paris, số 9 Rue Neuchatel, 91140 Villebon / Yvette, Paris (Pháp). Trụ thế: 85 năm; Hạ lạp: 49 năm. Lễ nhập kim quan cử hành vào ngày 14-7-2017 (nhằm ngày 20-6-Đinh Dậu). Kim quan Hòa thượng được tôn trí tại thiền viện Trúc Lâm Paris. Lễ viếng từ ngày 14 đến hết 18-7-2017 (21 đến 25-6-Đinh Dậu). Lễ Trà-tỳ được cử hành vào ngày 19-7-2017 (26-6-Đinh Dậu).



Buổi tối con lên tháp A Nan Đà để ngủ, ngang qua phòng Thầy cửa đã khép kín, con nghẹn ngào muốn khóc, nhớ hôm nào đến thăm Thầy, Thầy đã gọi con vào phòng và cho con bức tượng Quán Thế Âm Thầy mang từ Việt Nam về, Thầy nhắn nhủ dạy con rằng con nương theo hạnh Quán Thế Âm giúp những ai cần đến theo tiếng kêu cầu và Thầy rất vui khi biết con thường làm các việc thiện lành. Thầy kể con nghe ngày còn sa di Thầy vất vả khá nhiều nhưng lòng vẫn vui  vì đó là hạnh nguyện, Thầy kể những ngày làm thư ký cho hãng xì dầu do Pháp Sư Giác Đức sáng lập để nuôi học chúng…

Cả đêm trằn trọc con nghĩ tới Thầy, hơn năm trời con trôi nổi theo dòng đời, theo các việc thiện nguyện, nhiều lần nhớ tới Thầy con điện thoại thăm mà không được, con hối hận đã không để thời gian ra viết thư thăm Thầy như những năm về trước nếu như con không điện thoại được, dù lúc nào con cũng nghĩ tới Thầy với một lòng thương kính.

Con còn nhớ có lần con sắp đi làm ca đêm, 9 giờ tối Thầy gọi dt cho con nói „Diệu Danh tối nay lạnh, con đi làm mặc áo ấm, nhớ tới con làm đêm Thầy viết cho con bài thơ, rồi Thầy đọc con nghe:

 

VẪN CÒN

Người đi về giữa khuya

Phố xá im như chết

Lo loét đèn ai kia?

Gánh quà đêm chưa hết

Lạnh ướt sương đầm đìa

Văng vẳng đâu tiếng ếch

Người đi về giữa khuya

Bóng trên đường lẻ chiếc

Ngẩng đầu ngó trời kia

Còn ngấn trăng soi biếc

 

Trời ơi, con đã khóc thật nhiều lòng từ của Thầy cho con nhiều quá! Thầy nhìn con qua hình ảnh người đàn bà Việt Nam cực khổ, nhẫn nhịn, gánh hàng đêm để nuôi con ăn học, phụ giúp chồng gánh vác giang san nhỏ bé của gia đình vò võ ban đêm với gánh hàng chưa bán hết. Con bên này giữa đêm trường, một mình lái xe hơi, trời mùa đông giá lạnh với sương mù vây phủ chỉ nghe trên đường tiếng bánh xe con lăn, con ngậm ngùi, mùa đông trời xứ Đức không có trăng chỉ có màn đêm dầy đặc nhiều khi con nghĩ mình lẻ loi, quờ quạng trong sương mù, nhưng con đã có Thầy soi sáng tâm linh cho con. Pháp thân Thầy tỏa chiếu, lòng từ bi Thầy vô lượng vô biên un đúc cho con hạnh lành mà con ráng đời này gieo chút nhân lành, con quên cả những nhọc nhằn trong đời sống.

 Thầy ơi! Giờ con hiểu ra ngấn trăng soi biếc là pháp thân Thầy, là tình thương của vị Thầy đã dành cho đệ tử mình. Thầy ơi! Từ nay con không còn Thầy nữa, con một mình lẻ loi, không còn ai nhắc nhở con mặc áo ấm, nuôi các cháu ăn học, hiếu thảo với Mẹ Cha, sống nương theo đời nhưng luôn giữ cho mình giới hạnh- Trước Giác linh Thầy con hứa đời đời kiếp kiếp tu hạnh lành, làm điều lành để không phụ ân Thầy đã dưỡng dạy con.

Thầy ra đi nhằm mùa An Cư Kiết Hạ của Chư Tăng, cửu tuần nhiếp tâm tu học, nhơn nhơn tấn đạo nghiêm thân, huân tu tứ hoằng thệ nguyện, xứ xứ đàn na hộ pháp, hộ đạo, trợ duyên, cận đáo thời tự tứ, ngưỡng báo đáp Phật ân, chư Tăng thúc liễm thân tâm, sách tấn đồng tu, nghiêm trì luật tạng, gìn giữ thanh quy, nêu cao tinh thần lục hòa cộng trụ, thường hành giới, định, huệ trang nghiêm, tấn tu đạo nghiệp và tam vô lậu học, trì kinh nhị khóa công phu nhằm hồi hướng Thượng báo trọng ân, Hạ tế tam đồ khổ.

Là Phật tử con nguyện nhất tâm tu trì để đáp đền ơn trong muôn một của Chư Phật và „báo nghĩa ân sư huấn dục chỉ thâm ân, đáp tình Phụ Mẫu sinh thành chi hiếu đạo“.

„Ân giáo dưỡng một đời nên huệ mạng.

Nghĩa Tôn Sư muôn kiếp khó đáp đền“

Dù là một chữ cũng Thầy

Dù là nửa chữ cũng đầy ân sâu

Mai này vào cuộc biển sâu

Lời Thầy là những hạt châu soi đường



ht phuoc duong-4ht phuoc duong-3ht phuoc duong-2ht phuoc duong-1


 

Bạch Thầy,

Con nhớ nhiều quá, nhớ lần ghé thăm Thầy có anh chị Tôn Hoa, dì Tiết, dì Minh, chị Bảo, sáng dậy, con định đảnh lễ Thầy để về lại Đức, Thầy gọi con lại rồi hỏi: „Diệu Danh, con nói Thầy nghe 14 lời Phật dạy“ . Mô Phật Thầy ơi, con đã không trả lời được, con chỉ nhớ mỗi điều 14 nhưng rồi không dám trả lời. Thầy nhìn con rồi nói: „ Thầy cho con bao nhiêu lời dạy của Đức Phật cũng không đủ, con còn đi xin thêm rồi cho người khác, giờ Thầy hỏi con không biết“  thế rồi Thầy bắt con đứng lại đọc 14 lời Phật dạy trên tấm bảng có sẵn cho Thầy nghe, mọi người nhìn con, con mắc cỡ cúi đầu xuống và đọc từng câu:

 

  • Kẻ thù lớn nhất của đời người là chính mình
  • Ngu dốt lớn nhất của đời người là dối trá
  • Thất bại lớn nhất của đời người là tự đại
  • Bi ai lớn nhất của đời người là ghen tị
  • Sai lầm lớn nhất của đời người là đánh mất mình
  • Tội lỗi lớn nhất của đời người là bất hiếu
  • Đáng thương lớn nhất của đời người là tự ti
  • Khâm phục lớn nhất của đời người là vươn lên sau khi ngã
  • Phá sản lớn nhất của đời người là tuyệt vọng
  • Tài sản lớn nhất của đời người là sức khỏe, trí tuệ
  • Món nợ lớn nhất của đời người là tình cảm
  • Lễ vật lớn nhất của đời người là sự khoan dung
  • Khiếm khuyết lớn nhất của đời người là kém hiểu biết
  • An ủi lớn nhất của đời người là bố thí


Thầy kính! Con biết, con biết vì thương con nên Thầy nhắc nhở con học những lời dạy cao quý của Đức Phật áp dụng cho đời sống mà con đang sống, con hiểu Thầy dạy con „cho người những cái mà mình đã có và đã hiểu, làm việc gì cũng do từ tâm, trong chính niệm, con biết Thầy tình thương Thầy dạy dỗ con rất nhiều, dù chỉ qua ánh mắt.

Rồi khi Thầy thấy cô Minh cho con quả lê con cầm, Thầy lại rầy con: „con đã có rồi, có nhiều nhất Thầy cho con trước nhất vậy mà cô Minh cho con cũng cầm, may mà có Thầy ở đây con còn làm như vậy…“ con đâu dám cãi, nhưng từ trong đáy lòng con nhận quả lê cho cô Minh vui, cô nói với con cô bị bệnh đường không ăn được. Con rất vui và cảm động trước sự giáo huấn của Thầy như đấng từ phụ mà Thầy dành cho con.

 

Thứ tư, 19.7

Ba hồi trống Bát Nhã vang lên, Nhà đòn đã đến đóng kim quang Thầy, con nấc nở nghẹn ngào, thế là từ con không còn nhìn thấy bóng dáng từ hòa của Thầy nữa, con lẳng lặng theo sau Tăng Đoàn, và hàng Phật Tử niệm A Di Đà, bao nhiêu cánh hoa được tung lên để cúng dường Thầy, như Trời rưới hoa Mạn Đà và rồi bài thơ năm nào Thầy viết cho Sư Bác lại hiện về trong trí con rõ ràng, ngời sáng hình ảnh hiện ra như trước mắt con

 

Bóng Thầy

 

Ba hồi chuông trống vút lên mây

Chín phẩm liên hoa nở đón Thầy

Nắng đẹp Trung Thu rằm tháng Tám

Linh quang chiếu diệu sáng trời Tây

 

Chim ở quanh đồi trổi diệu âm

Gió theo nhập thất quyện hương trầm

Bóng Thầy cao ngự mây năm sắc

Vang dội lời vàng sáng đạo tâm.

 

Như chuyến vân du Thầy nhẹ bước

Ngàn tay lá trúc bái ân thâm

Ngàn tay Phật tử cùng uy đúc

Mãi mãi hưng Thiền viện Trúc Lâm

(Thích Phước Đường)

 

 và rồi con không khóc nữa, con hiểu Thầy đã vân du theo Đức Phật, ngày 19.6 vía Quán Thế Âm Bồ Tát như hạnh nguyện của Thầy xuống trần gian để hóa độ chúng sanh. Bầu trời trước đó chuyển mưa âm u vần vũ, nhưng khi linh quang Thầy ra đến cổng trời rực sáng, như hào quang của Chư Phật đón Thầy về để rồi Thầy sẽ trở lại Ta Bà như lời Thầy hứa khả hóa độ chúng sanh.

 

 

Kính dâng lên Giác Linh HT thượng Phước hạ Đường        

 

12.7.2017 rừng núi thiêng rung động

Những người con cung kính chấp tay chào

Tiễn đưa Thầy về Cực Lạc Quê Hương

Ơn cứu độ muôn loài cùng thương tiếc

Trên hư không Thầy vẫy tay từ ái

« Hỡi các con, lắng nghe lời ta dạy

Ta trở về chuyển hóa khắp muôn phương

Hóa thân ta sẽ đi khắp mọi miền

Hạt bụi nhỏ vẫn vương lời kinh tụng

Thân tứ đại nay trở về trong vũ trụ

Không gian này còn vang mãi pháp âm

12.7 miền Tịnh Độ an vui

Hoa sen nở tung bay miền Cực Lạc

Đón vui Thầy trở lại với Quê Hương

85 năm trụ đời, 54 năm hạ lạp

Pháp nhiệm màu Thầy rải khắp muôn phương

Lời kinh Phật chuyển lưu đời nhân thế

Thầy đã trở về trong hào quang rực rỡ

Chuyển hóa đời trong dòng điệu luân lưu

Ơn hóa độ Thầy ban chúng con xin ghi tạc

Dụng lời kinh chuyển hóa niệm bình an

Nam Mô Từ Phụ Di Đà

Pháp lành mầu nhiệm con dâng cúng dường

Thành tâm đảnh lễ Mười Phương

Hoa thơm lan ngát chân như diệu thường

 

Sáng nay con đi thiền hành vào rừng nơi gần nhà con ở, con đã ngắt từng cánh hoa mà con vừa cúng dường Đức Quán Thế Âm xong, con vừa đi vừa rải tung bên hai hàng cây để rồi lại cúng dường Giác Linh Thầy, trời nắng gắt nhưng có những làn gió nhè nhẹ thổi khiến tâm hồn con dễ chịu, con vừa đi vừa nhớ tới lời Đức Phật nói với ngài Anuradha:

-Này Anuradha, con nghĩ sao cái gì không có sắc, thọ, tưởng, hành và thức có phải là Như Lai không?

-Thưa không, Bạch Thế Tôn

-Này Anuradha, vì không tìm thấy Như Lai trong đời sống này, con có thể nói như thế này không: Đấng cao quý và tối thượng đã nhấn mạnh và giải thích bốn mệnh đề sau đây:

Một Như Lai hiện hữu sau khi nhập diệt

Một Như Lai không hiện hữu sau khi nhập diệt

Một Như Lai hiện hữu và không hiện hữu sai khi nhập diệt

Một Như Lai chẳng có mà cũng chẳng không có sau khi nhập diệt?

Thưa không, Bạch Thế Tôn

Lành thay! Anuradha. Trước đây và bây giờ cũng vậy, ta chỉ giải thích và nhấn mạnh chân lý của khổ đau và sự chấm dứt khổ đau.

 

Con thấy Thầy hiện ra trong con, trong tất cả, Pháp Thân Thầy là bài kinh vi diệu của lòng từ mẫn mà con phải kính thành đảnh lễ, những cánh hoa con trải để cúng dường Thầy tung bay khắp nơi, như những hạt giống lành mà Thầy đã gieo trồng cho hàng Phật tử chúng con.

 

Màu nhiệm thay! màu nhiệm thay!

Từng cánh sen nở! từng búp sen nở!

Ánh hào quang rực rỡ chiếu muôn phương

Đức Phật đó A Di Đà thân kim sắc

Cùng Đức Quán Âm, Ngài Thế Chí theo cùng

Biết bao Bồ Tát hiện thân

Rước người về đó chốn lành an vui

Nam Mô niệm Phật Di Đà

Cho Người cõi thế chan hòa niềm vui

Đâu đâu cũng tiếng nhạc trời

Ta Bà Tịnh Độ khắp nơi an lành

Chấp tay con quì xuống

Dòng nước mắt tuôn rơi

Nam Mô Từ Phụ Di Đà

Cha lành độ khắp muôn loài chúng sanh

Hôm nay con phát nguyện rằng

 Lòng thương rộng mở khắp cùng nhân gian

 

Con thành kính cúi đầu đảnh lễ và nhất tâm cầu nguyện Giác Linh Cố Trưởng Lão Hòa Thượng Thượng Phước Hạ Đường

Một tánh linh minh,

Tây Phương trực vãng

Ba thân thanh tịnh,

Chánh giác vị thành

Chứng pháp nhẫn vô sanh

Ngộ chơn thừa đại định

 

Ngưỡng nguyện Giác Linh Hòa Thượng cao đăng Phật quốc, bất vong nguyện lực, tái hiện đàm hoa, thể nhập Ta Bà, tồi tà phụ chánh, ứng hóa dộ sanh, khứ lai tự tại.

Thành tâm xin Giác Linh Ân Sư chứng giám

Đệ tử kính bái,

Diệu Danh

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/10/2014(Xem: 8515)
Pháp danh : Trừng Thành Pháp tự : Chí Thông, Pháp hiệu : Thích Giác Tiên. Thuộc dòng Lâm Tế Chánh Tông đời thứ 42 Thế danh : Ngài họ Nguyễn Duy húy là Quyển. Thọ sanh năm Canh thìn, niên hiệu Tự Đức đời thứ 33 (1879). Chánh quán làng Giạ Lệ Thượng, xã Thủy Phương, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên. Năm 1883, lên bốn tuổi thì song thân đều mất. Ngài được ông bà bác đồng tộc đem về nuôi dưỡng. Nhờ bẩm chất thông minh nên thân thuộc cho theo Nho học một thời gian. Nhận thấy giáo lý Phật đà mới là con đường hướng đến cảnh giải thoát ; từ đó, ngài xin với thân thuộc xuất gia đầu Phật. Năm 1890, được 11 tuổi, ngài cầu thọ giáo với tổ Tâm Tịnh.
01/10/2014(Xem: 8603)
Phật Giáo Việt Nam thời cận đại đã viết lên trang lịch sử bằng máu, xương của Chư Tôn Đức Tăng Ni và Phật tử. Dòng lịch sử ấy đã nêu cao tấm gương hy sinh bất khuất trước những đàn áp, bạo lực, súng đạn, nhà tù và lựu đạn. Phải chăng đây là một chặng đường lịch sử oai hùng mà Phật Giáo Việt Nam đã biểu tỏ tinh thần Đại hùng, Đại lực, Đại Từ Bi để vực dậy một nền văn hóa đã bị sụp đổ bởi một chế độ tha hóa, ngoại lai xâm nhập vào quê hương Việt Nam.
01/10/2014(Xem: 10275)
Trên dòng lịch sử Phật giáo Việt Nam thời cận đại của những thập niên 30-40 có bậc Tôn túc của Ni giới xuất hiện, đồng hành với chư Tăng để xiển dương Phật pháp, đào tạo Tăng tài, xây dựng tự viện, giữ gìn giềng mối đạo pháp được bền vững. Bậc Tôn túc của Ni giới ấy là SB Diệu Không, người đã hy hiến cả đời mình cho đời lẫn đạo, SB đã lưu lại cho hậu thế một hành trạng sáng ngời cho đàn hậu học noi gương.
09/09/2014(Xem: 14189)
Hòa Thượng Thích Giác Thông, tục danh Đổ Văn Bé, sinh ngày 18 tháng 2 năm 1939 tại Mỹ Hòa Hưng, Huyện Châu Thành, An Giang, Long Xuyên. Trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân Phụ là Cụ Ông Đổ Nhựt Thăng, Thân Mẫu là Cụ Bà Nguyễn Thị Khiên, Hòa Thuợng là người anh cả trong số 6 anh em ( 3 trai, 3 gái ), được nuôi dưỡng trong một gia đình nông dân hiền lành, có truyền thống đạo đức, nên từ nhỏ Hòa Thượng đã là người sớm có tư chất hiền lương, có tâm thương người mến vật, là con có hiếu với ông bà cha mẹ.
06/09/2014(Xem: 8371)
Không biết đây là lá thư thứ mấy con đã viết mà không bao giờ gởi đi, bởi vì con biết thư có vượt ngàn dặm trùng dương bay về thì Thầy cũng vẫn không cầm đọc được, chứng bịnh Parkinson đã làm cho hai tay Thầy run nhiều quá nhưng nhân mùa Phật Đản nhớ đến Thầy, con lại muốn viết. Thời gian sau này, con vẫn theo dõi thường xuyên sức khỏe của Thầy, con buồn vô cùng, Thầy đã bị bịnh, không thoát khỏi qui luật sinh, lão, bịnh mà con thì ở xa quá, không thăm viếng cận kề Thầy được như ngày xưa nữa !
05/09/2014(Xem: 17374)
Còn đây của báu trong nhà Không là ngọc bảo, không là hoàng kim Bình thường chiếc áo tràng lam Mà sao quý vượt muôn ngàn ngọc châu! Những năm cầu thực dãi dầu Sớm mai tụng niệm, đêm thâu mật trì Dòng đời mãi cuốn con đi Về nương chốn tịnh có Thầy, có Ôn… Kinh truyền ban phát khuyên lơn
02/09/2014(Xem: 12082)
“Đầu lông trùm cả càn khôn thảy Hạt cải bao gồm nhật nguyệt trong” Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống. Sách Thiền Uyển Tập Anh (Anh Tú Vườn Thiền) ghi lại cuộc đối thoại giữa ngài với Thiền Sư Bản Tịch ở chùa Chúc Thánh, nhân dịp ngài cùng với thiền sư đến nhà đàn việt để thọ trai, trên đường đi sư hỏi: Thế nào là ý chỉ của Tổ Sư? Sao thầy lại nghe theo nhân gian làm những chuyện đồng cốt mê hoặc? Bản Tịch đáp: Lời nói ấy đâu phải là không do đồng cốt giáng thần? Sư thưa: Chẳng phải là Hòa Thượng đùa bỡn con hay sao? Bản Tịch đáp: Ta chẳng hề đùa bỡn tí nào! Sư không nắm được ý chỉ của thầy bèn cáo biệt ra đi.
12/08/2014(Xem: 16726)
Cô là 1 nữ sinh trẻ nhất của Sài Gòn đã anh dũng ngã xuống trước họng súng của quân thù tàn bạo trong 1 buổi sáng mùa thu năm 1963 trước cửa chợ Bến Thành, với hàng ngàn sinh viên, học sinh và nhân dân phật tử trước cửa chợ Bến Thành. Và ngay sau đó, Thành hội sinh viên học sinh Sài Gòn đã quyên góp vận động ủng hộ xây bức tượng thờ người nữ học sinh anh hùng tuổi 15 đặt ngay công trường Diên Hồng trước cửa chính chợ Bến Thành ngày nay với sự chứng kiến của hàng ngàn người dân, phật tử thành phố và sinh viên, học sinh.
09/08/2014(Xem: 12954)
Hòa thượng Họ Đinh, húy Văn Nam, là đệ tử của cố Đại lão Hòa thượng Thích Tịnh Khiết, Đệ nhất Tăng thống GHPGVNTN, pháp danh Tâm Trí, tự Minh Châu, pháp hiệu Viên Dung, sinh ngày 20 tháng 10 năm 1918 (Mậu Ngọ) tại làng Kim Thành (Quảng Nam); nguyên quán làng Kim Khê, xã Nghi Long, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Thân phụ là cụ ông Đinh Văn Chấp và thân mẫu là cụ bà Lê Thị Đạt. Gia đình Hòa thượng có 11 người anh em, Hòa thượng là con trai thứ tư trong gia đình. Vốn sinh trưởng trong gia đình vọng tộc Nho gia, thân sinh của Hòa thượng đỗ tiến sĩ Hoàng giáp năm 21 tuổi (khoa Quý Sửu 1913, niên hiệu Duy Tân thứ 7). Nhờ ảnh hưởng sâu đậm nền giáo dục của cụ ông từ bé, vì vậy Hòa thượng rất cần mẫn đèn sách, chăm chỉ học hành, trí tuệ phát triển sớm. Năm 1939, Hòa thượng đỗ bằng cao đẳng tiểu học Đông Dương; năm 1940 Hòa thượng đỗ tú tài toàn phần tại Trường Khải Định - Huế (nay là Trường Quốc Học); và cùng thời gian này, Ngài được bổ làm Thư ký Tòa Khâm sứ tỉnh Thừa Thiên. Sau một năm
03/08/2014(Xem: 7030)
Lễ nhập quan được cử hành tại Bình Quang Ni tự vào lúc 18g00 cùng ngày. Lễ phúng viếng bắt đầu từ 8g00 ngày 9-7 Giáp Ngọ (4-8-2014). Lễ truy niệm được cử hành vào lúc 4g00 sáng nay, 12-7 Giáp Ngọ (7-8-2014); lễ phụng tống kim quan vào lúc 6g00 sáng cùng ngày. Nhục thân cố Ni trưởng tới đài hỏa táng núi Dinh, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu làm lễ trà-tỳ. Tro cốt của Ni trưởng sẽ được nhập bảo tháp tại Bình Quang Ni tự. Được biết, cố NT.Thích nữ Huyền Tông thế danh Dương Thị Ngọc Cúc, sinh năm 1918 tại P.Đức Thắng, TP.Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận. Vì sớm giác ngộ lý vô thường, nên năm 17 tuổi (1936), Ni trưởng cùng người cô của mình là cố Ni trưởng Huyền Học quyết tâm vào Sài Gòn xuất gia với cố Ni trưởng Diệu Tịnh tại chùa Hải Ấn. Đến năm 1940, Ni trưởng được thọ giới Cụ túc tại Giới đàn chùa Vạn An (tỉnh Sa Đéc). Suốt hơn 2/3 thế kỷ tu học và hành đạo, Ni trưởng đã tham gia vào phong trào đấu tranh yêu nước trong cuộc kháng chiến chống Pháp năm 1945, đấu tranh đòi quyền bình đẳng tô
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]