Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Di huấn của Sư Bà Hải Triều Âm: ‘Đời Thầy có chi đáng kể mà nói tiểu sử’

24/12/202209:49(Xem: 3809)
Di huấn của Sư Bà Hải Triều Âm: ‘Đời Thầy có chi đáng kể mà nói tiểu sử’

su ba hai trieu am-6su ba hai trieu am-3

Di huấn của Sư Bà Hải Triều Âm:
‘Đời Thầy có chi đáng kể mà nói tiểu sử’


Di huấn này được ghi chép tại Chùa Linh Quang ở thôn Phú An, xã Phú Hội, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng năm Mậu Thìn 1988, tức là khi Sư Bà Hải Triều Âm được 68 tuổi (sinh năm 1920), khoảng 25 năm trước khi Ngài mất năm 2013 tại Chùa Dược Sư cũng ở cùng thôn Phú An. Chùa Linh Quang, hay Tịnh Thất Linh Quang, là nơi Ni Trưởng Hải Triều Âm từng nhập thất suốt bảy năm đầu tiên khi lên vùng đất Đại Ninh.

Các đệ tử ở Chùa Linh Quang viết: “Đây là nguyên văn Di Chúc, Thầy đã để lại cho hàng đệ tử chúng tôi. Ngưỡng mong ai đọc văn này, hiểu được đường lối tu hành chánh pháp, sẽ lợi ích trong hiện đời và cả mai sau.”

Nhận thấy di huấn này là những lời dạy bảo, dặn dò tuy khiêm tốn nhưng rất sâu sắc, gói ghém tinh túy của sự thông đạt tư tưởng Phật giáo cao siêu của Sư Bà, một phần được thấy qua bài giảng về Kinh Lăng Nghiêm, chúng tôi trích đăng lại đây với tựa khác cho di huấn mà cũng chính là một tác phẩm của Ngài.

 

Di huấn của Sư Bà Hải Triều Âm:
‘Đời Thầy có chi đáng kể mà nói tiểu sử’
Linh Quang ngày Tự Tứ năm con rồng 1988

Đông Tây Nam Bắc chị em nhắc nhở, “Thầy đã 70 tuổi rồi, cho chúng con tiểu sử, để lúc Thầy lâm chung, chúng con có tiểu sử của Thầy, chúng con đọc như đám các Hòa Thượng.”

Đời Thầy có chi đáng kể mà nói tiểu sử. Chỉ có mấy điều đáng ghi là Hòa Thượng Bổn Sư trao cho Thầy năm chữ “Vô Ngã, Vô Ngã Sở.” Thượng Tọa Thanh Từ khi lên thăm Phú An dạy Thầy lưu tâm đến “Nghiệp Thức.” Hòa Thượng Bửu Lai khi từ biệt, nói không có quà gì hơn là cho Thầy hai chữ “Nhất Tâm.”

Vậy nay Thầy nói đường lối tu hành Thầy đã tự đi và đang dẫn các con đi.

Dĩ nhiên giới luật là căn bản. Còn Định và Tuệ thì vì Thầy thuộc căn cơ hạ hạ, nội phận chúng sanh quá nặng nề. Ngoại phận Thánh Hiền gần như chỉ được học trên Kinh điển, chính bản thân chẳng có chút giác tỉnh nào. Vì thế Thầy cần học Tứ Niệm Xứ. Quán bất tịnh miên mật năm này qua năm khác. Không phải chỉ tưởng, chỉ suy ngẫm mà phải tập thấy cho bằng được sự thật.

Những người chung quanh mình, cũng như bản thân mình, bắt đầu là giọt máu, hóa miếng bầy nhầy, thành một thai bào, rồi một đứa trẻ, một cô gái, một bà già. Cuối cùng là một thây ma, một đống thịt nứt loét. Nếu để trong không khí sẽ hóa dòi, xú khí lừng trời, một bộ xương, một nắm bụi, trả về đất.

Chúng ta bị nghiệp lực cuốn phăng phăng trong biến hóa, không một sức tự tại. Ngu si mê muội nhận nghiệp là mình. Không một chút nghi ngờ huống chi còn biết để ý:


1. Thần thức bị nghiệp dẫn vào tử cung mẹ. Ta lấy máu kinh nguyệt của mẹ làm chỗ ở và thức ăn. Các cụ thường nói, “Khi quỷ sứ đưa đi đầu thai, nó cho ăn cháo lú.” Nay học Kinh mới biết quỷ sứ là nghiệp dâm dục, cháo lú chính là thứ máu này. Đã chịu thân cách ấm thì Bồ Tát còn quên hết chỗ tu kiếp trước huống kẻ phàm tình. Tử cung mẹ toàn máu tanh. Quanh tử cung là những vòng ruột toàn phân thối. Một bọng nước tiểu khai. Tất cả các bộ phận này ở trong nước nhớp khắm. Chúng ta thành hình ở trong đó, từ nhơ bẩn mà ra. Ấy thế mà lớn lên trợn mắt cãi mẹ, tự cho mình là kẻ khôn giỏi tài hoa!

2. Cả bảy năm đầu công mẹ phù trì nuôi nấng, nói sao cho hết những nhọc nhằn.

3. Cho đến 21 tuổi, sáu căn bỡ ngỡ tập làm quen với sáu trần, trong cuốn phim đời chúng ta tự đóng trò và tự nếm ý vị.

4. Tuổi thành niên là tuổi năm ấm xí thịnh. Kinh Lăng Nghiêm nói, “Con mắt lưu dật bôn sắc.” Dùng ba danh từ liên tiếp để nói sức mạnh của vô minh chạy theo trần cảnh. Lưu là nước chảy xuôi dòng. Dật là lửa bén rừng hoang. Bôn là vó ngựa tung trong cánh đồng. Ý nói những sức mạnh này, không phải là không ngăn cản được, nhưng đã tập quá quen từ vô thủy, ít ai để ý kìm hãm. Thế là rông rỡ tham sân si… Thế là buông lung sát đạo dâm vọng…

5. Từ trẻ đến già, thân là cái máy đòi ăn uống, áo quần, nhà ở v.v. trăm thứ cần dùng. Ta đã đem hết tinh thần cung phụng. Nó chuyên sản suất phân tiểu, mồ hôi, cáu ghét. Mắt ra ghèn, tai ra ráy, mũi miệng ra đờm dãi. Ngày này qua ngày khác, trọn đời lo tắm rửa.

Tới khi tất cả gió trong người đồng dứt, cười, nói, cử động, nhất tề lạnh ngắt. Thây ma nằm im. Người ngoài tưởng thế là an nghỉ. Nhưng theo Kinh dạy thì khi hơi thở ngừng, tinh thần bức ngộp khổ vô cùng. Ta cứ thử lấy tay bịt mũi vài phút, sẽ biết chút ít sự khổ của người không được thở. Thiếu dưỡng khí, máu lạnh dần. Từng tế bào, từng thớ thịt, xương tuỷ như bị dao cắt kim châm. Khổ muốn phát điên mà thân không cử động được một tơ hào. Cứ thế cho tới lúc toàn thân lạnh ngắt, thần thức mới không hiện hành, tinh thần chìm trong mờ mịt… để sửa soạn một cuốn phim khác, bước sang đời sau.

6. Từ trong bào thai đến khi vào quan tài, các thứ bệnh hoạn đậu mùa, ho lao, thương hàn, sốt rét, hủi cùi, ung thư v.v. lặng lẽ bất chợt đem đau đớn cho người ta như rắn bò dưới cỏ. Nó đến lúc nào không ai biết. Chợt nó phát ra thì già trẻ sang hèn đều bị nó ngự trị hoàn toàn. Da thịt xương tủy đau nhức kiệt quệ. Còn bao nhiêu tai nạn khác như hóc xương, trượt chân, ngã gẫy tay vỡ sọ, một viên ngói rơi trúng đầu, một luồng gió độc thoáng qua…

Đời người là một chuỗi lo âu sợ hãi nhưng trí nhớ con người như dao chém nước, vừa nhấc lên đã mất vết. Không ai dám tự hào ngày mai tôi vẫn còn mạnh khoẻ. Ai cũng biết cuộc đời có lắm bất ngờ, hoạn nạn này, khốn khổ khác. Vậy mà thế gian vẫn vui cười, uống rượu, mê sắc, các thứ ngông nghênh kiêu căng đáo để, hành hạ lẫn nhau, xoay sở tàn hại nhau. Chỉ vì không thể nhớ rằng mình đã và sẽ khổ.

7. Mục đích cốt làm thế nào thấy rõ sự thật ở mỗi con người, mỗi con chim, con cá… là vô thường, vô ngã, khổ và không. Thấy rõ để giải thoát ba độc tham sân si, xót thương thành thật vạn loài, vui vẻ ở với ai cũng được và ở cảnh nào cũng được.

Đức Bổn Sư vừa giáng sanh đã nói ngay “Thiên thượng, thiên hạ duy ngã độc tôn.”

Thầy hiểu câu ấy nghĩa thế này: Trên trời dưới đất chỉ có cái TA chân thật mới đáng tôn quý. Vì muôn loài sống mê muội. Thân, tâm, cảnh đều hư vọng. Từ vô thủy lẩn quẩn mãi trong vòng Hoặc Nghiệp Khổ. Phật giáng sanh để khai mở cho nhân loại thấy và trở về sống với cái TA chân thật.

*


Chúng ta học Kinh Lăng Nghiêm:

1. Kiến tinh là tâm linh giác

Người mù tối tăm nhờ Bác Sĩ chữa khỏi, thấy được sự vật, nói rằng, “Mắt thấy.” Người lành trong đêm tối, nhờ ánh đèn thấy được sự vật, đáng lẽ phải nói rằng “đèn thấy.” Nên biết đèn là vật để hiển sắc còn Thấy là do mắt chứ không phải đèn. Mắt là vật để hiển sắc còn Thấy là do Tâm chứ không phải mắt. Hữu tình nào cũng có Chân tâm. Chân tâm là tánh Phật, tánh tri giác ở sáu căn chúng ta.


2. Kiến tinh bất động

Kiều Trần Như trình bày hai nghĩa Khách-Trần: Trong quán trọ hành khách ăn, nghỉ rồi lại lên đường. Thật chủ nhân không có tới lui.

Ánh nắng mặt trời rọi qua khe cửa, bụi trần giao động lăng xăng còn hư không vẫn tịch lặng.

Phật dạy: Chúng sanh lấy nghĩa giao động gọi là Trần, bất trụ gọi là Khách. Nay các ông xem đầu Anan giao động, tánh thấy không giao động. Tay ta có nắm có mở, tánh thấy không hề co duỗi. Tại sao các ông cứ lấy động làm thân, lấy động làm cảnh. Từ sanh đến tử, cứ nhận vọng tưởng niệm niệm sanh diệt làm tâm. Quên mất tánh chân thật, điên đảo hành sự, nhận vật là mình, tự chuốc lấy luân hồi lưu chuyển.

Thân chúng ta sanh để diệt. Sắc thanh v.v. sáu trần theo duyên hiện ra rồi tắt. Tâm yêu ghét cũng tới rồi đi. Toàn là khách trần, chỉ có tánh Phật chủ nhân ông vẫn thấy nghe hay biết, bất động.


3. Kiến tinh bất diệt

Vua Ba Tư Nặc bạch Phật: Thân con vô thường biến hoại, niệm niệm không dừng, âm thầm dời đổi lúc nào không biết. Năm 20 tuổi, tuy nói là trẻ mà thật đã già hơn năm lên 10. Năm 30 lại già hơn khi 20. Bây giờ 62 tuổi so với ngày 50, thật kém phần cường tráng. Xét kỹ hàng năm, hàng tháng, hàng ngày, niệm niệm đổi dời. Nên biết thân này chắc chắn hoại diệt.

Phật dạy: Đại vương tự tủi thân già tóc bạc da nhăn. Tánh thấy của Đại vương không già không nhăn. Có già có nhăn là có biến hoại. Không già không nhăn là không biến hoại. Kiến tinh đã chẳng theo thân ông có trẻ có già thì biết kiến tinh vốn vẫn không sanh không diệt.

Mắt già đeo kính lại thấy tỏ. Đủ biết con mắt có trẻ có già, kiến tinh không trẻ không già. Từ vô thuỷ ta đã thấy. Đến ngày thành Phật ta vẫn thấy.

4. Kiến tinh viên mãn


Anan thưa: Tánh thấy bất diệt, sao Phật bảo chúng con đánh mất chân tánh, điên đảo hành sự?

Phật hỏi: Người thế gian cho cánh tay giơ lên là chánh, rủ đầu ngón tay chúc xuống là đảo. Điên đảo chỉ ở chỗ đầu đuôi để lộn chớ cánh tay vẫn y nhiên, không thêm bớt. Vậy ông hãy xét vì sao thân Như Lai gọi là chánh biến tri mà thân các ông gọi là điên đảo tánh?

Anan và cả đại chúng cùng ngẩn ngơ, không biết thân tâm mình điên đảo ở chỗ nào.

Phật thương xót chỉ dạy: Mê muội thành hư không. Trong tăm tối kết ám thành sắc. Sắc tạp với vọng tưởng, tướng của vọng tưởng là thân. Tụ duyên giao động bên trong, rong ruổi theo cảnh bên ngoài. Một khi đã nhận cái mịt mờ rối loạn ấy làm tâm tánh thì quyết phải lầm tâm ở trong thân. Đâu có biết rằng cả thân lẫn núi sông thế giới đều là vật hiện trong diệu minh chân tâm. Thí như bỏ cả trăm ngàn biển cả. Chỉ nhận một mảnh bọt nổi. Rồi trở lại cho mảnh bọt là tất cả. Ông là người trong mấy tầng mê, thật đáng thương xót.

Triệt Ngộ đại sư dạy: Khởi niệm bỏn sẻn, tâm biến thành pháp giới quỷ. Khởi niệm sân ác, tâm biến thành pháp giới địa ngục. Cứ thế mười phương chánh báo y báo, bốn Thánh sáu phàm đều từ chân tâm mà có. Nên biết vạn pháp duy Tâm.

Pháp giới lấy Chân tâm ta làm thể. Nơi nào có pháp là có tâm ta. Tâm ta rộng khắp pháp giới (Đại); đủ hình tướng của muôn loài (Phương); đủ hết công dụng Thánh phàm (Quảng); Tánh là giác (Phật). Ai sống với chân tâm sẽ có những công hạnh rực rỡ tốt tươi (Hoa) để trang nghiêm (Nghiêm) cho mình và vạn loài chung hưởng. Sự nghiệp Hoa Nghiêm đức Thích Ca Mâu Ni Phật đã thành công.


5. Kiến tinh vô sanh

Anan thưa: Con tuy đã hiểu diệu minh tâm địa viên mãn thường trụ. Nhưng hiểu đây là dùng tâm phan duyên chiêm ngưỡng suông chân tâm mà thôi, chớ thật chưa dám nhận là bổn tâm của mình.

Phật dạy: Còn dùng duyên tâm nghe pháp thì chỉ được pháp duyên chớ chưa được pháp tánh. Pháp như ngón tay chỉ mặt trăng. Người nghe nên nhân ngón tay mà nhìn thẳng mặt trăng.

Nếu phải có âm thanh làm duyên mới nghe thì khi pháp duyên diệt rồi, tâm phan duyên như lữ khách cũng phải theo duyên mà diệt.

Nay ta chỉ cho ông diệu tịnh minh tâm thường trụ. Ông hãy xem các tướng sanh diệt đều có chỗ trả về: Sáng trả về cho mặt trời, tối trả về cho ban đêm, thông trả về cho cửa mở, bít trả về cho tường vách… còn kiến tinh ông định trả về đâu? Những vật có chỗ trả về dĩ nhiên chẳng phải là ông. Thứ không chỗ trả về, nếu không phải của ông thì của ai? Nên biết tâm ông vốn diệu minh tịnh, ông tự mê muội, bỏ chủ theo khách, để chịu trôi dạt trong biển sanh tử, thật là đáng thương.

Sắc thân nhân duyên sanh nên theo duyên mà diệt. Ngoại sắc sáu trần cũng vậy.

Thọ tưởng hành thức là vọng tâm, đều cùng nhân duyên sanh diệt. Kiến tinh không do nhân duyên mà có nên không sanh không diệt; không có quá khứ hiện tại vị lai. Bài trên đã nói kiến tinh ở khắp mười phương. Bài này dạy kiến tinh vô sanh bất diệt nghĩa là thường trụ.


6. Kiến tinh chân ngã

Thưa: Làm sao biết được kiến tánh thật là chân tánh của con?

Phật dạy: Anan có tuệ nhãn thấy tới sơ thiền. A Na Luật Đà có thiên nhãn thấy khắp Diêm Phù Đề. Pháp nhãn Bồ Tát thấy biến mãn mười phương. Phật nhãn thấy cả pháp giới. Nhục nhãn chúng sanh chỉ thấy trong gang tấc.

Năm lượng thấy khác nhau nhưng đều là tánh thấy. Vạn vật muôn hình ngàn sắc biến hóa sanh diệt. Tánh thấy chủ nhân ông đứng nhìn vạn vật, tự nó không thay đổi, không xen tạp. Chẳng những không xen lộn với vạn vật mà công dụng của nó cũng không tạp loạn với tánh thấy của người khác. Ông thấy là ông thấy chứ không phải tôi thấy. Tánh thấy chu biến chẳng ông còn ai? Sao ông cứ tự nghi, không tự nhận lấy chân tánh mà cứ theo tôi cầu tâm chân thật.


Kinh Pháp Hoa phẩm Pháp Sư Công Đức dạy: Sáu căn thanh tịnh sẽ có những công dụng siêu phàm. Tánh Phật ở nơi 6 căn, tùy thoát hoặc nghiệp đến đâu, sẽ hiển lực dụng thần thông tới đó. Vậy thì 10 thân, 4 trí, thập lực, vô biên quang minh, đâu có phải chỉ riêng phần đức Thích Ca. Chúng sanh nào có khả năng trở về với chân tâm bổn tánh của mình sẽ tự thấy đầy đủ trí tuệ đức tướng Như Lai.

Địa vị của chúng ta, chúng ta không tự nhận. Cứ cam phận luân hồi, nay nhận ta là người, mai nhận ta là trâu, là gà… Cầu Phật cứu khổ trong khi cứ tự mình dấn bước vào đường khổ.

su ba hai trieu am-2
Sư Bà tại Chùa Dược Sư ngày 27 tháng 8, 2012, gần một năm trước mất. (Hình của cư sĩ Huệ Minh)


7. Kiến tinh tùy duyên bất biến

Anan thưa: Nếu tánh thấy chu biến viên mãn ấy thật là con, thì sao khi con ở ngoài con thấy khắp bầu trời, vào trong nhà con chỉ thấy tường vách. Hay là tánh thấy có co duỗi đứt nối?

Phật dạy: Lớn nhỏ trong ngoài đều là tướng của tiền trần. Ví như trong hộp vuông tựa hồ có hư không vuông. Trong hộp tròn tựa hồ có hư không tròn. Muốn vào cảnh giới không vuông tròn chỉ cần vứt những hộp đi. Không nên nói phải trừ tướng vuông tròn của hư không. Hết thảy chúng sanh từ vô thủy tới nay mê mình làm vật, quên mất bổn tâm, bị vật lưu chuyển. Nên ở trong đây thấy lớn nhỏ trong ngoài. Nếu chuyển được vật ắt đồng Như Lai, thân tâm viên minh, không động đạo tràng, nơi một đầu lông ngậm khắp 10 phương quốc độ.

Thấy là do ánh sáng mặt trời từ ngoại vật phản chiếu vào mắt. Đứng ở ngoài sân mắt lãnh ánh sáng khác. Vào trong nhà ánh sáng khác nên thấy cảnh khác. Vậy cảnh theo duyên mà biến chớ kiến tinh bất động. Tâm theo cảnh mà biến thành khổ vui yêu ghét chớ kiến tinh bất động. Thân cũng theo nghiệp mà có lớn như voi, nhỏ như vi trùng chớ kiến tinh bất động. Kiến tinh như hư không. Nghiệp ví như những hộp vuông tròn. Tánh Phật ở mắt gọi là thấy, ở tai gọi là nghe, ở sáu căn thành ra sáu dụng. Tánh Phật vô biên diệu dụng chớ đâu phải chỉ có sáu.

8. Kiến tinh bất nhị

Anan thưa: Nếu kiến tinh vô phân biệt thật là diệu tánh của con, vậy thì thân tâm con hiện tại đang biết phân biệt đây là cái gì?

Phật dạy: Ông hãy nhìn khắp trên trời dưới đất rồi đích chỉ xem trong vạn vật cái nào là kiến tinh.

Thưa: Từ giảng đường con nhìn ra thấy sông Hằng, ngửa lên thấy mặt trời. Lấy tay chỉ được, từ mắt xem được, toàn là vật chẳng phải kiến tinh.

Phật dạy: Đúng vậy.

Phật lại bảo: Ông nhìn khắp vạn vật rồi đích chỉ cái nào chẳng phải kiến tinh.

Thưa: Nếu cây chẳng phải kiến tinh làm sao thấy được cái cây? Nay con nhìn khắp, suy ngẫm kỹ càng, tất cả vạn vật chẳng thứ nào không phải kiến tinh.

Phật dạy: Đúng vậy.

Rồi Phật giảng: Kiến tinh diệu minh cùng với hư không và trần cảnh vốn là vô thượng bồ đề tịnh viên chân tâm, hư vọng mà thành sắc không cùng văn kiến. Như mặt trăng thứ hai là mặt trăng thật hay không phải mặt trăng? Chỉ có một mặt trăng chân thật.

Trung gian không có cái gì phải mặt trăng hay không phải mặt trăng. Vì thế nay ông quan sát kiến văn và không sắc, phát minh ra đủ thứ, đều là vọng tưởng. Chẳng thể vượt khỏi những nghị luận vu vơ “phải hay không phải”. Nếu ông biết tất cả đều là chân tịnh diệu giác thì ông liền ra khỏi những rắc rối “chỉ được hay không chỉ được”.

Thế gian gọi là tinh thần và vật chất. Nhà chùa gọi là danh và sắc. Trong Kinh A-va-đà-na, Phật dạy vẽ danh sắc, một người lái thuyền chở đồ vật trên chiếc đò để tượng trưng tư tưởng sai sử cơ thể. Nếu cơ thể không đồng loại với tư tưởng, làm sao hiểu để tùy thuận tư tưởng. Các nhà khoa học ngày nay đã công nhận nước, gỗ, đồng… không có thật thể, đều là nguyên tử, vật chất không phải là vật chất. Đây là nói nghĩa không hai giữa vật chất và tinh thần. Còn chánh văn Kinh nghiêng về nghĩa không hai giữa chân và vọng. Ông Anan ở vào thế khó, muốn xả vọng mà từ xưa tới nay vẫn nhận vọng là mình, đã là mình thì làm sao xả. Muốn cầu chân mà chân tâm không hình không tướng, ở khắp mười phương, mang mác bơ vơ làm sao nắm bắt. Đức Phật dạy toàn vọng tức chân. Như cánh tay chỉ lên là chính, chúc xuống là tà.

Chính hay tà toàn do công dụng chớ cánh tay vẫn là cánh tay. Tâm chính gọi là chân. Tâm tà gọi là vọng. Hồi đầu thị ngạn. Hiện tiền tâm niệm hễ cứ tỉnh ra là chân tâm ngay đấy. Kiến tinh bất nhị, không vọng cũng không chân, mà là bản thể của cả chân lẫn vọng.



9. Kiến tinh siêu tình (vượt ngoài tình chấp)

Thưa: Phật ở núi Lăng Già vì các ông Đại Tuệ nói, “Ngoại đạo chủ trương tự nhiên. Ta nói vạn vật do nhân duyên sanh.” Làm sao ngày nay Phật dạy, “Tánh giác trạm nhiên thường trụ.” Con thấy tựa như không phải nhân duyên. Làm thế nào để chúng sanh hiểu rõ, khỏi lạc về tà thuyết tự nhiên của ngoại đạo?

Phật dạy: Tánh giác diệu minh phi nhân, phi duyên, phi tự nhiên, phi bất tự nhiên, không phi bất phi, không thị phi thị, ly nhất thiết tướng, tức nhất thiết pháp. Sao ông cứ đem những danh tướng hí luận thế gian mà phân biệt. Như người lấy tay nắm bắt hư không, chỉ tự mệt nhọc chớ hư không có bao giờ để ông nắm bắt.

Muốn đo lường trước hết phải có một thước đo chính xác. Muốn biết tánh Phật, trước hết phải y chánh nhân Phật tánh, tu cho tỉnh ra. Tỉnh đến đâu, biết đúng đến đấy. Như người trong mộng phải tỉnh mộng mới biết được thật tại. Không thể đem thân tâm đang mộng suy tìm cảnh thật. Càng suy tìm càng thêm mộng. Như người đau mắt nhìn thấy hoa đốm ở hư không. Càng để ý, càng phân tách, càng thấy thêm hoa đốm.

su ba hai trieu am-4
Chiếc giường đơn giản của Sư Bà Hải Triều Âm lúc cuối đời.


10. Kiến tinh chưa phải kiến tánh

Kiến tinh còn đeo hai vọng kiến phát sanh hoặc nghiệp, khiến nghiệp thức luân chuyển thọ báo:

a. Biệt nghiệp vọng kiến

Ví như người mắt nhặm thấy quanh đèn có vòng năm sắc. Mắt nhặm và vòng năm sắc đều là bệnh. Thật thể tịnh minh là kiến tánh, tự nó không bệnh.

b. Đồng nghiệp vọng kiến

Hai nước ở bên cạnh nhau. Tất cả nhân dân nước bên này đều thấy sao chổi. Người nước bên kia không thấy gì cả. Phật kết luận: Ông nay thấy tôi cùng mười loại chúng sanh đều là do mắt bệnh. Kiến văn giác tri cùng với trần cảnh đều là bệnh. Kiến tánh thấy được bệnh mê vọng này, tự nó không bệnh. Mười phương quốc độ cùng các chúng sanh đều là giác minh vô lậu diệu tâm, kiến văn giác tri hư vọng bệnh duyên hòa hợp vọng sanh, hòa hợp vọng tử. Nếu có thể xa lìa các duyên hoà hợp cùng bất hoà hợp thì liền có thể diệt trừ các nhân sanh tử mà viên mãn Bồ-đề bất sanh diệt tánh.


Người mắt nhặm ví với thức tâm đeo nghiệp. Vòng năm sắc ví với năm ấm. Tất cả chúng sanh đồng nghiệp vọng thấy luân hồi sanh tử vì cùng nhau sống với nghiệp thức là căn bản sanh tử. Biệt nghiệp là kẻ nặng về sát, người thiên về dâm. Mỗi người đi một ngả, kẻ làm ngạ quỷ người làm bàng sanh.


Đại lão hòa thượng Viên Anh giảng hòa hợp duyên tức là biệt nghiệp thuộc sự thức, là nhân của phận đoạn. Bất hoà hợp duyên tức là đồng nghiệp thuộc nghiệp thức, là nhân của biến dịch sanh tử.

Hòa hợp duyên nghĩa là không những Hoặc hiện mà còn có nghiệp hoà hợp để thành. Như thân chúng sanh phải có nghiệp ái dục mới thành.

Bất hòa hợp duyên tức là nghiệp thức. Tuy còn trần sa hoặc và vô minh hoặc nhưng đã hết kiến hoặc và tư hoặc, không còn những nghiệp để có thể hoà hợp hiện tướng 12 loại sanh.

Vạn pháp quy về Như Lai tạng


su ba hai trieu am-1
Sư Bà Hải Triều Âm

Anan, bởi vì ông còn chưa biết hết thảy các tướng huyễn hóa phù trần, đương xứ xuất sanh, tùy xứ diệt tận, huyễn vọng gọi là tướng. Tánh chân thật của nó là diệu giác minh thể. Như vậy có tới năm ấm, sáu nhập, mười hai xứ, mười tám giới đều là do nhân duyên hư vọng hòa hợp có sanh, nhân duyên biệt ly hư vọng gọi là diệt. Đâu có biết rằng sanh diệt đi lại vốn là Như Lai tạng thường trụ diệu minh bất động chu viên diệu chân như tánh. Trong tánh chân thường cầu các pháp khứ lai, mê ngộ, sanh tử rốt ráo chẳng thể được.

Nhưng Thầy trò ta không thể chỉ nghe chỉ học mà phải tập luyện hàng ngày miên mật, thấy các điểm trên ở thân mình, ở thân mỗi vật. Tập thấy tánh thể bình đẳng. Nhận biết cái Thấy ở mắt con gà cũng đang thường trụ ở khắp mười phương như cái Thấy của ta không khác. Nghe, ngửi, nếm, xúc, biết cũng thường trụ ở khắp mười phương.

Ta, Phật và chúng sanh đồng thể không sai biệt. Miên mật tập học như vậy, tập tin mỗi vật quanh ta, đều là vị lai Phật. Như vậy dù không đại ngộ, tiểu ngộ hay tí ti ngộ nhưng tầm tri kiến cũng có phần nào được “Hương quang trang nghiêm.” Chúng ta hy vọng tiến vào pháp Vi mật quán chiếu (Samatha). Đời sống của Thầy mới tới đây đã sắp dứt. Ước mong con hơn cha, nhà ta có phước. Các con đủ sức tiến hơn cho tới phần Tam-ma là pháp Phản-văn, phần chánh yếu của Kinh Lăng Nghiêm, nối nghiệp Hòa Thượng pháp chủ Thích Đức Nhuận, tổ sư của chúng ta.

*

Kinh Lăng Nghiêm dạy ba tiệm thứ. Chúng ta phải thiện hiện từ lúc phát tâm đến ngày thành Phật:

1. Trừ trợ nhân sanh tử (năm thứ rau cay)

2. Khoét bỏ tánh chúng sanh (trì giới)

3. Sáu căn sống trái với nghiệp hiện tiền (xả thọ).

Trợ nhân sanh tử nếu chỉ có năm thứ rau cay thì chúng ta chắc đã thành Phật cả rồi. Trợ nhân mạnh nhất chính là gia đình, xã hội, cả trái địa cầu đang sống trong Hoặc Nghiệp Khổ. Cho nên chúng ta phải xuất gia, tìm nơi có quy củ đúng chánh pháp, để mong ở bầu được tròn, để tránh ở ống hóa dài.

Kiếp sống phù du, cảnh vốn mây bèo, trí tuệ non cạn, tâm phàm khó gột. Giơ tay cất bước tội đã ngập đầu, ác đạo trầm luân dễ vào mà khó ra. Cho nên ta phải dự chọn một nơi có đủ minh sư thiện hữu để rời thân ngũ ấm này, chúng ta đủ duyên tiếp nối công phu.

Đức Thích ca dạy:

“Về phương tây cách đây mười vạn ức cõi Phật, có một thế giới gọi là An Lạc, có đức Phật A Di Đà hiện đang thuyết pháp.

“Đức Phật vì sao hiệu là A Di Đà?

“Xá Lợi Phất này, Phật A Di Đà quang sáng vô cùng vô lượng, soi khắp các nước suốt cả mười phương không đâu chướng ngại. Phật A Di Đà cùng với nhân dân của Ngài sống lâu vô cùng đến bao nhiêu kiếp không thể kể xiết. Phật A Di Đà thành Phật đến nay mới có mười kiếp. Đệ tử Thanh Văn toàn A La Hán hằng sa vô số. Các vị Bồ Tát cũng đông như thế. Mười phương chúng sanh sanh về An Lạc đều là những bậc một đời không thoái. Trong có rất nhiều nhất sanh bổ xứ. Số sanh sang đấy nhiều lắm không thể đếm mà biết được. Chỉ có thể nói là nhiều vô số vô lượng vô biên. Chúng sanh nghe rồi thì nên phát nguyện, nguyện sanh sang đấy để được cùng các bậc thượng thiện như thế cùng nhóm họp một nơi”.

su ba hai trieu am-5
Sư Bà cùng các ni đang niệm Phật hộ niệm cho một đệ tử bệnh nặng 


Tín Nguyện Hành

Chúng ta cần học tập để ra khỏi ba cõi, tiến tu sự nghiệp, trên cầu Phật đạo dưới giác tỉnh chúng sanh, ngõ hầu đền đáp bốn ân, cứu khổ muôn loài.

Như trên là đường đi do quý Hòa Thượng, liệt vị thiện tri thức đã dắt dẫn. Thầy đã được một đời sống bình an vui vẻ trong hiện tại. Và tương lai hé mở một khung trời đầy ánh sáng hy vọng.

Nam mô tánh tướng bất nhị, minh hợp vô vi, nhất thiết tối thượng Tăng già gia chúng.

Nam mô thập địa, tam hiền, ngũ quả, tứ hướng, nhất thiết xuất thế Tăng già gia chúng.

Nam mô Tỳ kheo ngũ chúng, hòa hợp vô tranh, nhất thiết trụ trì Tăng già gia chúng.

Tái Bút: Thầy để lại cho các con một hướng phương cất bước, để đỡ bơ vơ trong biển Phật pháp mênh mông. Nhưng trên con đường mòn này, tùy sở thích các con muốn trì kinh nào cũng quý, Pháp Hoa, Hoa Nghiêm, Bát Nhã, cho tới Di Đà, Phổ Môn, A Hàm… Muôn hoa, hoa nào cũng tươi, cũng đẹp, cũng thơm.

Nguyện cầu:

Tông phong vĩnh chấn,
Tổ Ấn trùng quang,
Giác hoa hương biến khắp rừng thiền.
Mưa pháp tưới nhuần người sơ học.
Cành cành lá lá tiếp nối không ngừng,
Tổ đường rực rỡ, chánh pháp xương minh.
Nam mô Độ Nhân Sư Bồ-tát ma ha tát (3 lần).





Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
23/08/2021(Xem: 4632)
Hòa thượng thế danh là Trần Đại Quảng, pháp danh Tâm Trí, tự Viên Giác, hiệu Chiếu Nhiên, thuộc đời thứ 43 dòng Lâm Tế, Liễu Quán. Ngài sinh năm Nhâm Tý (1912), tại làng Dương Nổ, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên, trong một gia đình Nho phong đức hạnh nhưng có chí cách tân, theo hướng Tây học. Thân phụ là cụ ông Trần Đại Dật, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Mĩu (pháp danh Tâm Mỹ). Ngài lớn lên theo truyền thống giáo dục gia phong, được tiếp xúc với nhiều bậc thân hữu trí thức của thân phụ trong những lúc hàn huyên hay luận bàn văn sách. Do đó Ngài đã sớm tiếp thu kiến thức sâu rộng, lý giải sự việc nhanh chóng, đạt lý thuận tình nên rất được lòng quần chúng. Ngài ham học hỏi, hiếu khách, nhất là được kết thân với các bậc thiện hữu tri thức, chính vì thế mà Ngài phát huy trí tuệ rất nhanh. Nhờ tính năng động và chí phấn đấu trong học tập và lao động nên dù nghiêm thân mất sớm, Ngài, với tư cách con trưởng, vẫn giữ vững gia nghiệp, phụ giúp mẫu thân dưỡng dục các em học hành t
20/08/2021(Xem: 10083)
Sư Phụ Tôi người hiền hoà chất phát Sống một đời giản dị rất bình dân Bất cứ ai dù ở chốn xa gần Khi cần đến Ngài sẵn sàng cứu giúp. Ngài thuộc bậc hàng cao Tăng thạc đức Nhưng lúc nào cũng tỏ hạ khiêm cung Sống giản đơn nhưng sắc thái kiêu hùng Bình thuận tỉnh, đệ huynh đều kính mến. Không phung phí của Đàn na tín thí Từng hạt cơm, hạt đậu cả hạt mè Quần áo thì vài ba bộ che thân. Ngày ba bữa cháo rau cùng tương đậu. Thời khoá biểu Ngài luôn thường nhắc nhở
11/08/2021(Xem: 7263)
Toàn tập Kinh Tạng Nikaya cho Iphone & Ipad (cảm ơn TT Tâm Hải đã gởi tặng, mời đại chúng vào download để đọc kinh Tạng)
04/08/2021(Xem: 6808)
Sông Thạch Hãn, Ngân Thiền Tâm Mộ Phật. Chốn Trà Trì, Gương Học Hạnh Xuất Gia. Nhỏ Tầm Chơn, Quyết Chí Xa Thế Tục. Khoác Áo Nâu Sòng, Học Lối Thích Ca. Chào Song Thân, Xứ Bảo Lộc Quê Nhà. Nương Thầy Tổ, Giữ Gìn Tâm Hướng Đạo. Mùi Kinh Kệ, Tháng Ngày Xông Cõi Tịnh. Thuộc Luật Nghi, Từ Góc Hạnh Trăng Sao.
26/07/2021(Xem: 8281)
Hòa thượng thế danh là Nguyễn Minh Có, pháp danh Huệ Đạt, pháp hiệu Hoàn Thông, sinh năm Đinh Tỵ (1917) triều Khải Định năm đầu, tại ấp Hội An, xã An Phú Tân, huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh, trong một gia đình nông dân nghèo. Thân phụ là cụ ông Nguyễn Văn Phuông, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Sửu, Ngài mồ côi cha lúc 13 tuổi. Thiện duyên đưa đến cho hạt mầm Bồ đề trong tâm Ngài phát triển. Năm 1930, trong thân tộc có ông Hồ Trinh Tương, gia tư khá giả, phát tâm phụng sự Tam Bảo, xuất tiền của xây một ngôi chùa, lấy hiệu là Hội Thắng Tự. Ông xuất gia đầu Phật, húy là Tường Ninh, pháp danh Đắc Ngộ, pháp hiệu Niệm Hưng và làm trú trì chùa này để hoằng dương đạo pháp. Ngài được thân mẫu cho phép xuất gia với Sư cụ trú trì chùa Hội Thắng khi vừa mồ côi cha, được ban pháp danh Huệ Đạt. Năm 16 tuổi (1933) Ngài được Bổn sư cho thọ giới Sa Di.
12/07/2021(Xem: 4225)
Trăm Năm Cõi Mộng Phù Hương, Vọng Lời Kinh Phật, Mở Đường Pháp Sinh. Lời Thầy Còn Đọng Chút Tình, “Sông Bờ” Ai Đợi, Dáng Hình Trí Yên. Quê Quảng Bình, Dấu Phật Thiên. Nuôi Mầm Học Hạnh, Giãi Niềm Gia Lai. Thầy Dụng Võ, Ngọc Liên Đài, Thâu Lời Kinh Luận, Bỏ Ngoài Tục Danh.
26/06/2021(Xem: 4165)
Quên sao được những ngày đầu nhập đạo Quỳ trước Thầy con phát nguyện xuất gia (1) Cuộc đời con nay đã được an hòa Sống giải thoát trong tình thương Thầy, bạn Nương Chùa Tỉnh (Pháp Bảo) thăng hoa từng ngày tháng Từ học hành đến tu tập nâng cao Từng trải nghiệm với Phật Pháp nhiệm mầu Hành tinh tấn chuyển hóa nhiều nghiệp lực Sống vị tha khiêm cung tròn phước đức Học hạnh Thầy dung nhiếp độ chúng sanh Viện Huệ Nghiêm, Vạn Hạnh chưa viên thành (2) Đường phụng sự tham gia Đoàn Xã Hội (3) Nhưng tu hành Thầy khuyên đừng nên thối Tinh tấn lên nhân quả rất công bằng Việc sẻ chia thực hiện hết khả năng Đời ý nghĩa mang niềm vui dâng hiến Đức hài hòa của Thầy luôn thể hiện (4) Tròn vai trò Hội Chủ suốt nhiều năm Lòng của Thầy trong sáng tợ trăng rằm Quyết độ tận chúng sanh vơi đau khổ !!! Chùa Pháp Hoa, 26/06/2021 Thích Viên Thành
22/06/2021(Xem: 13861)
Lời thưa của người kết tậpNhững khi nhắc chuyện Chùa xưa, Mẹ thường kể “… Sau ngày Ông Ngoại bị liệt, Ôn Đỗng Minh hay thăm hỏi, và dặn các học trò thường xuyên lui tới săn sóc…” Tôi biết vỏn vẹn chỉ chừng ấy về Ôn, vậy đã là quá nhiều! Tập san Hoa Đàm số 12 này được kết tập và phát hành nhân ngày Kỵ, phần lớn nội dung bài vở, hình ảnh đã có trong tập Kỷ yếu Tưởng Niệm Ôn (viên tịch ngày 17.06.2005 | 11.05 năm Ất Dậu) do hàng Đệ tử của Ôn thực hiện trước đây, và một ít từ trang nhà Quảng Đức (https://quangduc.com/) của Thầy Nguyên Tạng biên tập, cũng như Pháp Tạng (http://phaptangpgvn.net/vie/) do Thầy Tâm Nhãn phụ trách.
21/06/2021(Xem: 6027)
Kính mời quý vị tham dự lễ húy kỵ Hòa Thượng khai sơn chùa Pháp Hoa, thượng NHƯ hạ HUỆ vào Chủ Nhật 27/6/21, và khóa an cư Kiết Đông từ ngày 4 đến 10/7/2021 theo chương trình như sau: 1.Lễ húy kỵ Hòa Thượng khai sơn: Chủ Nhật, 27/6/21: 8:00am: Phật tử công quả phước điền, 9:00am: Tụng kinh, niệm Phật. 10:30 am: Lễ Húy Kỵ Hòa Thượng Khai Sơn: (Có chương trình riêng). 12:00pm: Cơm chay đạo vị. 2.Lễ kiết giới an cư: Chủ Nhật, 4/7/21: 8:00am: Chư Tăng Ni và Phật tử câu hội và ổn định chổ ở. 9:30am: Lễ khai mạc, công bố nội quy tu học, và Lễ kiết giới tràng, 11:00am: Quá đường, ngọ trai và Lễ Xả giới tự tứ ngày Thứ Bảy 10/7/2021.
18/06/2021(Xem: 9154)
Mười tuổi không may mất mẹ cha Cư tang hiếu kính vẹn tình nhà Ân sâu dốc trả tâm quy đạo Nghĩa nặng mong đền chí xuất gia Phật Pháp tinh thông an lạc hiện Thiền Kinh quảng lãm não phiền xa An Ban Thủ Ý vui nguồn sống Lục Độ Tập Kinh toả đức hoà.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]