Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thành kính tưởng niệm Hòa thượng Thích Tín Đạo (1946-2014)

24/08/202207:18(Xem: 2940)
Thành kính tưởng niệm Hòa thượng Thích Tín Đạo (1946-2014)


ht tin dao
Thành kính tưởng niệm
Hòa thượng Thích Tín Đạo
(1946-2014)





Chiều ngày 08 tháng 07 năm 2014 nhằm ngày 12 tháng 06 năm Giáp Ngọ tại chùa Trúc Lâm, phường Thủy Xuân, thành phố Huế; Ban trị sự GHPGVN tỉnh Thừa Thiên Huế đã dâng hương và điếu viếng lễ tang Hòa thượng Thích Tín Đạo tân viên tịch.

Quang lâm dâng hương và viếng lễ tang có chư tôn đức Giáo phẩm chứng minh Ban Trị sự GHPGVN tỉnh TT. Huế; chư tôn đức Thường trực BTS GHPGVN tỉnh TT. Huế cùng chư tôn đức Tăng Ni các tổ đình, tự viện, Niệm Phật Đường.

Hòa thượng thế danh Nguyễn Ngọc Khiết, Pháp danh Nguyên Quang, Pháp tự Thích Tín Đạo, bút hiệu Ngân Thanh; thuộc dòng Lâm Tế đời thứ 44. Hòa thượng sinh năm Bính Tuất (1946) người làng Cư Chánh, xã Thủy Bằng, thị xã Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế. Thân phụ là cụ ông Nguyễn Ngọc Chút pháp danh Nguyên Đại, thân mẫu là cụ bà Hồ Thị Mài pháp danh Nguyên Khiết. Thầy sinh ra trong một gia đình mộ đạo và là em út của 5 chị anh. Trong đó có vị vừa là bào huynh vừa là pháp huynh là Hòa thượng Thích Lưu Thanh.

Năm 19 tuổi (1965) thầy phát tâm xuất gia tu học với cố Hòa thượng Thích Mật Hiển, Tổ đình Trúc Lâm Huế.

Năm 1967 được Bổn sư cho thọ Sa di phương trượng tại Tổ đình, trong  năm này Hòa thượng đã trúng tuyển vào kháo Cao đẳng chuyên khoa Phật học Liễu Quán tại chùa Linh Quang-Huế

Sau biến cố Mậu Thân 1968, Hòa thượng chuyển vào Phật Học viện Hải Đức - Nha Trang và tiếp tục chuyên trình học tập tại trường Trung học Bồ Đề - Nha Trang. Cũng năm này thầy đăng đàn thọ Cụ túc giới tại Giới đàn Phật Học viện Hải Đức.

Sau khi tốt nghiệp Tú tài I, II được Học viện chuyển vào Sài Gòn, ở tại Tu viện Quảng Hương Già Lam và tiếp tục chương trình Đại học.
Đã theo học Cử nhân tại các trường Đại học Văn khoa Sài Gòn và Đại học Vạn Hạnh.

Sau năm 1975, Hòa thượng về ẩn tu và sinh hoạt theo tinh thần Thiền nông của Tổ Bách Trượng tại chùa Như Pháp, huyện Tiểu Cần , tỉnh Trà Vinh.
Năm 1979 trở về trú xứ Già Lam, tiếp tục học khóa chuyên khoa bồi dưỡng Phật học Cao cấp. Trong thời gian này Hòa thượng được mời dạy môn Duy Thức Học cho lớp Ni sinh tổ chức tại chùa Già Lam, Từ Thuyền.

Năm 1987 Ni sư Trí Hải mời dạy Tư Tưởng Kinh Điển Đại Thừa tại Ni viện Tuệ Uyển, thuộc Phật Học viện Vạn Hạnh.

Năm 1990 nhận lời mời đến dạy tại Trường Cơ bản Phật học tỉnh Hậu Giang về môn sử Phật giáo.

Năm 1991 được mời thỉnh giảng môn Lịch sử và Tư Tưởng Phật giáo thuộc khoa Sử Địa, Đại học Cần Thơ.

Năm 1994 thầy giảng dạy tại các Trường Phật học Cần Thơ và Sóc Trăng.

Năm 1996 giảng dạy môn Sử Phật giáo cho các trường: Phật học Thiên Khánh và Thiên Phước tại Long An; cũng thời gian này Hòa thượng đã được mời dạy các trường Hạ chùa Kim Cang (Thủ Thừa), chùa Hòa Bình, chùa Bồ Đề (Cần Giuộc), tịnh thất An Hòa (Thủ Đức), Tịnh xá Trung Tâm, Tịnh xá Ngọc Phương thuộc hệ phái Khất sĩ ở Tp.Hồ Chí Minh.

Năm 1997, trường Cao đẳng và Trung cấp Phật học mời dạy môn Duy Thức Học và Tư Tưởng Đại Thừa tại chùa Vĩnh Nghiêm (Tp.Hồ Chí Minh).

Năm 1998, Giáo thọ sư bộ môn Duy Thức học cho lớp Cao Đẳng chuyên khoa Phật học Cần Thơ.

Năm 2003, thể theo lời mời của Hòa thượng Viện chủ chùa Trang Nghiêm tại Pakse. Hòa thượng đã sang thăm nươc Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, trong dịp này thầy đã đi tham quan các danh lam thắng cảnh tại Thủ đô Viêng Chăn (Lào) và một số thắng cảnh tại Thái Lan.

Những năm về sau, vì bệnh duyên và lo trị bệnh nên Hòa thượng không còn thường xuyên tham gia các lớp giảng dạy Phật pháp cho chư Tăng ni sinh tại các tỉnh miền Tây và Đông Nam bộ. Nhưng đó cũng là thời gian để Hòa thượng ra vào Huế, về với Tổ đình thường xuyên và có thời gian để đàm đạo với huynh đệ nhiều hơn để như bù lại thời gian do nghịch cảnh của xã hội làm các huynh đệ mỗi người một ngã.

Đầu năm 2014, như cảm nhận được luật thế vô thường, Hòa thượng đã trở về Tổ đình đảnh lễ bảo thápTổ và Bổn sư. Thăm hỏi nhị vị Hòa thượng Pháp huynh. Sau đó Hòa thượng cũng đã nhờ con cháu đưa đi thăm viếng mộ phần của song thân và Tổ tiên ông bà.

Sau đó Hòa thượng trở lại Quảng Hương Già Lam để đảnh lễ niệm ân chư Tôn đức tại trú xứ đã hoan hỷ  cùng Hòa thượng tu học trong hơn 40 năm hành đạo tại niềm Nam.

Hòa thượng đã an nhiên thị tịch lúc 4 giờ 10 phút ngày mùng 8 tháng 6 năm Giáp Ngọ (4/7/2014): thọ 69 tuổi đời và 46 hạ lạp.

Một số tác phẩm đã thực hiện:

Diệu Huệ Dòng Nữ Kinh (dịch giảng và chú thích, 1984).
Tuệ Trung Thượng Sĩ (Thiền Học, 1993).
Để lại cho ai (Thi tập, 1968).
Nguồn suối êm đềm (Tập truyện ngắn, 1970).
Mây ngàn (Thi tập, 1988).
Màu hoa tưởng niệm (Nhạc).

Lễ Tham yết Phật Tổ sẽ được trang nghiêm cử hành vào lúc 16h00 ngày 15/06 năm Giáp Ngọ. Lễ nhập Bảo tháp sẽ được tiến hành vào lúc 7h00 ngày 16/06 năm Giáp Ngọ.





Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
30/05/2012(Xem: 8834)
Tín Nghĩa tôi đến định cư Hoa Kỳ vào ngày 19 tháng 09 năm 1979, do nhị vị Hòa thượng Thích Thiên Ân và Hòa thượng Thích Mãn Giác bảo lãnh từ trại tỵ nạn Hongkong. Ngồi tính sổ thời gian thì cũng đã gỡ gần ba chục cuốn lịch. Giá như thời gian này mà ở trong tù thì cũng mục xương và chẳng bao giờ được thấy ánh sáng của thiên nhiên.
27/05/2012(Xem: 20734)
Tác phẩm Trí Quang Tự Truyện bản pdf và bài viết "Đọc “Trí Quang Tự Truyện” của Thầy Thích Trí Quang" của Trần Bình Nam
15/05/2012(Xem: 6365)
Trong đạo lập thân của người xưa – lập công, lập đức, lập ngôn– thì lập ngôn thường được cho là quan trọng nhất, vì đó là phần “hình nhi thượng”, là tinh hoa tư tưởng cá biệt của một dòng đời mang tính truyền thừa lâu dài và sâu xa cho hậu thế. Người đem hết năng lực tinh thần và tri thức của đời mình để lập ngôn thì thành nhà tư tưởng, triết gia. Người đem chất liệu đời mình để viết lại thì thành tác giả tự truyện, hồi ký.
09/05/2012(Xem: 8729)
Sự xuất hiện của Tổ sư Liễu Quán (1667-1742) như là một Bồ tát bổ xứ, thực hiện sứ mệnh lịch sử: Không chỉ duy trì và phát triển mạch sống Phật giáo Việt Nam giữa bối cảnh xã hội tối tăm, Phật pháp suy đồi mà còn thể hiện sự xả thân vì đạo; lập thảo am, ăn rong, uống nước suối, hơn mười năm tham cứu công án, tu hành đắc đạo.
28/04/2012(Xem: 5814)
Nhà văn cư sĩ Huỳnh Trung Chánh, còn có bút hiệu Hư Thân, sanh năm 1939 tại Trà Vinh, quê nội của ông. Suốt quảng đời niên thiếu ông sống nơi quê ngoại tại Cao Lãnh, tỉnh Sa-Đéc, Nam Việt Nam. - Tốt nghiệp Cử nhân Luật Khoa( 1961 ), Đại Học Luật Khoa Saigon. - Tốt nghiệp Cử nhân Phật Học (1967), Phân Khoa Phật Học và Triết Học Đông Phương, Viện Đại Học Vạn Hạnh, Saigon. Là một công chức dưới thời Việt Nam Cộng Hoà, ông đã nổi tiếng thanh liêm, chánh trực và hết lòng dấn thân để phục vụ đại đa số dân chúng Việt Nam theo hạnh Bồ Tát của Phật giáo. Ông đã từng giữ các chức vụ sau đây: - Lục sự tại Toà Án Saigon và Long An (1960 – 1962). - Chuyên viên nghiên cứu tại Phủ Tổng Thống (1962 – 1964). - Thanh Tra Lao Động tại Bộ Lao Động (1964 – 1965). - Dự Thẩm tại Toà Sơ Thẩm An Giang (1965 - 1966). - Chánh Án tại Toà Sơ Thẩm Kiên Giang (1966 – 1969) và Toà Án Long An (1969 – 1971). - Dân Biểu Quốc Hội VNCH tại Thị Xả Rạch Giá (1
26/04/2012(Xem: 19444)
Mùa Phật Đản 1963, có máu, lửa, nước mắt và xương thịt của vô số người con Phật ngã xuống. Nhưng từ trong đó lại bùng lên ngọn lửa Bi Hùng Lực của Bồ Tát Thích Quảng Đức
20/04/2012(Xem: 9695)
Hòa thượng Thích Thiên Ân, thế danh Đoàn Văn An, sinh ngày 22 tháng 9 năm Ất Sửu 1925, tại làng An Truyền, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên. Thân phụ của Ngài là Đoàn Mễ, sau xuất gia là Thượng tọa Thích Tiêu Diêu một bậc tử đạo Vị pháp thiêu thân, thân mẫu là một tín nữ chuyên lo công quả ở chùa Báo Quốc và tu viện Quảng Hương Già Lam, Ngài là con trai thứ trong một gia đình có 4 anh em. Ngài xuất thân trong một gia đình thế gia vọng tộc, có truyền thống kính tin Phật pháp lâu đời. Nhờ duyên gần gũi Tam bảo từ thuở nhỏ, Ngài đã sớm mến cảnh thiền môn với tiếng kệ câu kinh, nên năm lên 10 tuổi (1935), Ngài theo bước phụ thân xin xuất gia đầu Phật tại chùa Báo Quốc, làm đệ tử của Hòa thượng Phước Hậu, được Bổn sư ban pháp danh là Thiên Ân, Ngài tinh tấn chấp tác, học tập thiền môn qui tắc, hầu cận sư trưởng. Năm Tân Tỵ 1941, khi được 16 tuổi, Ngài được Bổn sư cho thọ giới Sa di tại giới đàn chùa Quốc Ân – Huế, do Hòa thượng Đắc Quang làm Đường đầu truyền giới.
08/04/2012(Xem: 6151)
Hòa thượng thế danh Đoàn Thảo, sinh ngày 10 tháng Giêng năm Kỷ Dậu (1909), niên hiệu Duy Tân năm thứ 3 trong một gia đình nhiều đời theo Phật tại xứ Đồng Nà, tổng Phú Triêm Hạ, xã Thanh Hà, huyện Diên Phước, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam (Nay là thôn Đồng Nà, xã Cẩm Hà, thị xã Hội An, tỉnh Quảng Nam). Thân phụ là cụ ông Đoàn Văn Nhơn pháp danh Chơn Quang, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Có. Gia đình Ngài gần chùa Vạn Đức, lại thêm cụ thân sinh là tín đồ thuần thành của chùa, nên từ thuở nhỏ, Ngài thường theo cha đến chùa hàng đêm tụng kinh niệm Phật. Từ đó, chủng tử Bồ Đề lớn dần trong tâm và Ngài tỏ ra những biểu hiện rất có căn duyên với cửa Không môn của nhà Phật.
31/03/2012(Xem: 6976)
Hòa thượng thế danh Dương Đức Thanh, tự Liễu, pháp danh Như Nhàn, tự Giải Lạc, hiệu Trí Giác, nối pháp đời thứ 41 dòng Lâm Tế, thế hệ thứ 8 pháp phái Chúc Thánh. Ngài sinh năm Ất Mão (1915) tại làng Cẩm Văn, huyện Điện Bàn tỉnh Quảng Nam, trong một gia đình nhiều đời kính tín Tam Bảo. Thân phụ là cụ ông Dương Đức Giới pháp danh Chương Đồ, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Phụng pháp danh Chơn Loan. Năm lên 3 tuổi, thân phụ Ngài qua đời, thân mẫu tảo tần nuôi con và cho Ngài theo học chữ Nho với các cụ đồ trong làng, được 5 năm mới chuyển sang học Việt văn.
23/03/2012(Xem: 6419)
Đức Đại Lão Hòa Thượng Chánh Thư Ký Xử Lý Viện Tăng Thống GHPGVNTN là thế hệ thứ 8 của phái Thiền Thiệt Diệu Liễu Quán, Pháp danh Trừng Nguyên, Hiệu Đôn Hậu. Xuất gia và thọ cụ túc với Hòa Thượng Bổn sư là Tổ Tâm Tịnh, khai sơn chùa Tây Thiên Huế, sau các Pháp huynh là quý Hòa Thượng Giác Nguyên, Giác Viên, Giác Tiên, Giác Nhiên...
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]