Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Ngài Gyalwa Karmapa thứ 17 Chia sẻ Thông điệp về Thiền sư Thích Nhất Hạnh

25/01/202207:39(Xem: 3441)
Ngài Gyalwa Karmapa thứ 17 Chia sẻ Thông điệp về Thiền sư Thích Nhất Hạnh


Su ong Lang Mai-23
Ngài
Gyalwa Karmapa thứ 17
Chia sẻ Thông điệp về Thiền sư Thích Nhất Hạnh

(Thich Nhat Hanh’s passing: Karmapa’s message)

 

Tôn giả Gyalwang Karmapa đời thứ 17 là người lãnh đạo tinh thần tối cao của giáo phái Karma Kagyu của Phật giáo Tây Tạng đã gửi thông điệp chia buồn Thiền sư Thích Nhất Hạnh viên tịch, nhắc lại nhân duyên đặc biệt giữa Dòng truyền thừa Karma Kagyu với Ngài và đưa ra thông điệp tiếp nối mạng mạch Phật pháp.

 

Mở đề bức thông điệp được viết tại thủ đô New Delhi, Ấn Độ, ngày 22/1/2022, Tôn giả Gyalwang Karmapa đời thứ 17 viết rằng:

 

Chư vị Tăng thân quý mến,

 

Một trong những bậc Đạo sư Phật giáo tôn kính nhất của thời đại của chúng ta, Thiền sư Thích Nhất Hạnh, vừa thanh thản hồn nhiên trút hơi thở, xả báo thân, nhập Pháp thân.

 

Tôi bày tỏ lời chia buồn đến tất cả môn đồ pháp quyến của Ngài tại Việt Nam và trên toàn thế giới, nhưng đồng thời, tôi muốn khuyến tấn chúng ta hãy tìm thấy niềm hỷ lạc trước hành trạng siêu việt không gian và di sản siêu việt thời gian của Ngài.

 

Sự kiện Ngài từ giã trần gian này không có nghĩa Ngài đã mất. Như bản thân Ngài đã tuyên bố, "Chỉ vì ngộ nhận mà chúng ta cho rằng người chúng ta quý mến đã không còn hiện hữu nữa sau khi "từ trần". Điều này bởi chúng ta bám víu một trong những hình tướng, một trong những phần ngoại biểu của người đó. . . Con người chúng ta yêu thích vẫn còn đó, vẫn ở quanh chúng ta, ở trong chúng ta và đang nở nụ cười tươi với chúng ta".

 

Trong bức thông điệp, Tôn giả Gyalwang Karmapa đời thứ 17

 

Trong bức thông điệp, Tôn giả Gyalwang Karmapa đời thứ 17 chia sẻ về nhân duyên giữa Dòng truyền thừa Karma Kagyu với Thiền sư Thích Nhất Hạnh. "vì nhờ Từ bi tâm của Ngài mà Ni chúng của chúng ta từ Dohagno Kundrol Ling đã được thụ giới Tỳ kheo ni tại Làng Mai vào năm 1994. Vì Giới luật là thọ mạng của Phật pháp, là nền tảng của tất cả công đức và trí tuệ, cho nên không có sự cúng dường nào to lớn hơn sự tiếp nối mạng mạch Phật pháp".  

 

Đánh giá về cống hiến của Thiền sư Thích Nhất Hạnh, Tôn giả Gyalwang Karmapa đời thứ 17 viết: "Đối với thế gian, tôi cảm nhận rằng sự cống hiến của Ngài, trong quá khứ cũng như hiện tại, là việc vận dụng đời sống tâm linh đích thực, không biên giới, không giới hạn".

 

Và sự từ giã trần gian của Thiền sư Thích Nhất Hạnh, Tôn giả Gyalwang Karmapa đời thứ 17 đưa ra thông điệp: "Sự kiện tâm linh không biên giới này không chỉ là các pháp âm; cũng không có nghĩa là hòa quyện nhiều tôn giáo và truyền thống tâm linh khác nhau, để tất cả đều đánh mất bản sắc của mình.

 

Thật vậy, nhờ không tạo nên bất kỳ khó khăn nào cho các tôn giáo khác và truyền thống khác, mà Ngài đã nỗ lực làm hiển hiện và phản chiếu tính thể của mọi tín ngưỡng người khác đang chấp trì; vì thế, tất cả đều nhận thấy những nét đặc thù cũng như dị biệt của chính mình đều được tôn trọng, được cảm thông và được bao dung. Chính sự tôn trọng và bao dung này, chính tâm thái "tất cả hãy giữ nguyên bản sắc của mình", đã khiến tha nhân liễu ngộ rằng cuối cùng tất cả chúng ta đều bình đẳng.

 

Bằng cách này, mọi vấn nạn sẽ lắng dịu, sẽ được hóa giải thì tất cả mọi người cũng thấy được "sự thật", hay bất cứ tên gọi gì chúng ta muốn.

 

Một hành hoạt như thế đều được tất cả những Phật tử nhìn nhận là Phật pháp. Không có bất cứ điều gì các vị Bồ tát không dấn thân và học hỏi để hóa giải những nỗi khổ niềm đau của tha nhân, như Ngũ minh và bất kỳ phương tiện thiện xảo, ứng dụng trong xã hội nào, ngay cả chính trị học.

 

Đây là tất cả những gì Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã thực hiện. Phần còn lại là của chúng ta".

 

Tôn giả Gyalwang Karmapa đời thứ 17

Thích Vân Phong dịch

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
18/07/2010(Xem: 6433)
Kính bạch Sư Tổ! Chúng con đang tập tiếp xúc với Người qua hình ảnh một bậc thầy già chốn núi rừng Dương Xuân. Một túp liều tranh, một bà mẹ già và với ba người đệ tử. Đó là khoảng thời gian hạnh phúc nhất của Sư Tổ. Người có thời gian chăm sóc mẹ già và trao truyền những hoa trái tu học cho những người học trò yêu quý. Xuất thân từ làng Trung Kiên – một vùng đất Phật giáo ở Quảng Trị, Sư Tổ đã đến chùa Thiên Thọ (Báo Quốc) núi Hàm Long – Huế, để xuất gia học đạo với Thiền sư Phổ Tịnh, lúc đó Người chỉ mới lên bảy tuổi. Đến năm 30 tuổi, nhận thấy nơi Sư Tổ có chí khí của một bậc Xuất trần nên Sư Tổ được Bổn sư phú pháp truyền đăng với bài kệ: Nhất Định chiếu quang minh Hư không nguyệt mãn viên Tổ tổ truyền phú chúc Đạo Minh kế Tánh Thiên.
04/07/2010(Xem: 9518)
-Người đi tiên phong và nỗ lực không mệt mỏi cho sự nghiệp phát triển trí tuệ, từ bi và hòa bình- -Nhà lãnh đạo toàn cầu trong phong trào vì hòa bình, nhân quyền và sức khỏe cộng đồng-
14/06/2010(Xem: 4495)
Hòa Thượng Thích Bích Nguyên là một trong những bậc cao Tăng thạc đức của Phật giáo Lâm Đồng. Ngài họ Nguyễn, húy là Tùng, sinh năm 1898 tại làng Duy Hòa, xã Triệu Hòa, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Thuở nhỏ, bẩm chất thông minh, đĩnh ngộ. Thời tráng niên, lập nghiệp ở Lào, Hòa Thượng nhân đọc báo Từ Bi Âm mà ngộ đạo, thấy rõ cuộc đời vô thường, nuôi chí xuất gia. Đến năm 29 tuổi (1927), Hòa Thượng mới có đủ nhân duyên đầu sư thọ giáo với Hòa Thượng PHƯỚC HUỆ, Trú trì chùa Hải Đức, Huế và đắc giới Sa di năm 1934. Năm 1936, ngài thọ Cụ túc giới với pháp hiệu BÍCH NGUYÊN, rồi theo học ở các lớp Phật học tại các Phật học viện Hải Đức, Bảo Quốc và Ấn Quang.
15/05/2010(Xem: 4343)
Thiền sư Khánh Hòa sinh năm 1877 tại làng Phú Lễ tỉnh bến Tre, xuất gia năm 19 tuổi tại chùa Khải Tường. Chí nguyện chấn hưng Phật giáo của ông phát sinh vào khoảng năm ông được bốn mươi tuổi. Ông du hành khắp các tổ đình và Nam Kỳ để gây ý thức chấn hưng và kêu gọi sự hợp tác của các bậc tôn túc.
19/03/2010(Xem: 6360)
Một cặp kính trắng với sợi dây vòng ra sau cổ, năm ba con khỉ nhảy tung tăng trên vai, trên đầu, tóc tai rối rắm, áo quần cái dài, cái ngắn, kiểu đàn ông, đàn bà, đầy màu sắc sặc sỡ …đây là dáng người anh Bùi Giáng chúng ta thường gặp trên những nẽo đường Sài Gòn năm 1975 … Sau năm 1975 , anh Bùi Giáng về ở chung với chúng tôi trong nội xá viện Đại học Vạn Hạnh cũ (222 Trương Minh Giảng, nay là Lê Văn Sĩ). Vào thời điểm này, Đại học Vạn Hạnh không còn hoạt động, nên nội xá chỉ còn một số ít người ở lại với Hòa thượng Viện trưởng Thích Minh Châu. Chúng tôi quản lý chung, chú Chơn Thuần đi chợ và thị giả cho Hòa thượng Viện trưởng, anh Trần Châu phụ trách an ninh, anh Bùi Giáng thì nhận nhiệm vụ đi mua lương thực.
10/03/2010(Xem: 5173)
Bản thân tôi (Tín Nghĩa), rất ít có dịp thân cận với Ôn Già Lam. Điều dễ hiểu, vì tôi không xuất thân từ Phật Học Viện. Vả lại, mỗi lần Ôn về Huế (Bảo Quốc), thường vào dịp đầu xuân, thì đa phần Ôn hay đàm luận Phật sự với quý Ôn lớn như Ôn Linh Mụ, Ôn Trúc Lâm, Ôn Linh Quang, Ôn Từ Đàm và Ôn Bảo Quốc, . . . Đầu năm, Ôn thường hay nghe Đại luật (tức là dạy luật Tứ phần) cho hai chúng Tỳ kheo và Tỳ kheo ni, thì tôi đạp xe ra học rồi về lại chùa. Vả lại, bổn phận của tôi ở chúng Trúc Lâm cũng tương đối bề bộn. Tuy thế, chính tôi lại có với Ôn ba kỷ niệm khó quên.
10/03/2010(Xem: 7658)
Bây giờ là những ngày cuối năm âm lịch. Thiên hạ cùng viết về Xuân, Tết. Tôi muốn viết về Ôn Già Lam và Tu viện Quảng Hương Già Lam. Ôn Già Lam là cách gọi tôn kính của những môn đệ và phật-tử hướng về Đại lão Hòa thượng Thích Trí Thủ, vị viện chủ sáng lập tu viện. Trong tu viện, tăng chúng khi nói về ngài thì chỉ dùng chữ “Ôn” một cách gần gũi. Còn tu viện Quảng Hương Già Lam thì vẫn thường được gọi với cái tên thật ngắn: chùa Già Lam.
10/03/2010(Xem: 6060)
Ôn Già Lam, chỉ ba tiếng ấy thôi cũng đủ làm ấm lòng bao lớp Tăng sinh của các Phật Học Viện: Báo Quốc - Huế, Phổ Đà - Đà Nẵng, Hải Đức - Nha Trang, Già Lam - Sài Gòn. Ba tiếng nói ấy như trái tim của Mẹ ấp ủ đàn con qua suốt quãng đời dãi dầu mưa nắng. Ôn Già Lam, người đã hy sinh suốt đời mình để phụng sự cho Phật pháp, đào tạo Tăng tài qua nhiều thế hệ. Ôn đã khai phóng tinh thần thế học cho Tăng sinh các Phật Học Viện.
10/03/2010(Xem: 12780)
Sau năm 75 các Phật Học Viện đều đóng cửa. Các tăng sinh tại các Phật Học Viện đều trở về chùa cũ của Thầy Tổ để sinh sống và tu học. Thật tế, tu thì có mà học thì hầu như không. Có chăng là Thầy dạy đệ tử trong chùa. Những chùa có ruộng đất thì thầy trò tự túc canh tác để sinh sống. Sinh hoạt giáo dục và đào tạo tăng ni trẻ đã không còn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567