Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bảy ngày sư ông Thích Trí Tịnh biết trước mình sẽ vãng sinh

30/12/202116:05(Xem: 5362)
Bảy ngày sư ông Thích Trí Tịnh biết trước mình sẽ vãng sinh


ht-thich-tri-tinh


Sư ông Thích Trí Tịnh

biết trước mình sẽ vãng sanh




Cố Đại lão Hòa thượng thượng Trí hạ Tịnh – Đệ nhất Phó Pháp chủ, nguyên Chủ tịch HĐTS GHPGVN – là bậc Tòng Lâm thạch trụ, mặc dù tinh thông cả Thiền lẫn Giáo, song Hòa thượng một đời chuyên tâm hành trì pháp môn Tịnh độ và luôn luôn khuyến tấn Tăng Ni, Phật tử ăn chay, giữ giới, niệm Phật…

Tối ngày 11/02 âm lịch (03/03/2012), vào lúc 10 giờ tối, lúc đó tôi niệm Phật ở dưới hai cái thất mà phía trên là phòng của Sư Ông. Khi khóa lễ vừa xong, bỗng nghe (thấy) tiếng của đầu gậy dọng xuống nền phát ra từ phòng của Sư Ông. Lúc đó tôi vội vàng chạy lên, vừa thấy tôi, Ông liền bảo: “Lấy cái đồng hồ để lên đầu giường cho Sư Ông và lấy cái bảng có bài Kệ Niệm Phật xuống” (trong phòng Sư Ông có treo cái bảng bài Kệ Niệm Phật). Khi lấy xuống Sư Ông liền chỉ vào hai câu: Niệm lực được tương tục, đúng nghĩa chấp trì danh, rồi Sư Ông liền chỉ vào mình mà ra hiệu, ý Sư Ông nói đã được đến đây, sau khi ngồi hồi lâu Sư Ông lên giường nghỉ tiếp.

Sáng ngày 12/02 âm lịch (04/03/2012), Sư Ông thức dậy sinh hoạt như thường ngày, rửa mặt, dùng tiểu thực. Lúc đó Sư Ông ra hiệu lấy cái bảng rồi ghi lên đó là ngày chủ nhật, 04/03/2012 (nhằm ngày 12/02/âm lịch). Thật ra hơn một tháng nay, Sư Ông không hề ra khỏi phòng thì ngày tháng năm làm sao Sư Ông nhớ. Vậy mà lạ thay, Sư Ông lại ghi đúng chính xác ngày tháng năm cả đến thứ mấy không hề sai.

Ngày 21/02 âm lịch (13/03/2012): Hôm nay là ngày vía đức Phổ Hiền Bồ tát. Vào lúc 8 giờ 30 sáng, Sư Ông lấy áo hậu mặc vào, lên giường, Sư Ông ngồi, tư thế bán già trong dạng thiền định khoảng 10 phút rồi xả ra.

Ngày 22/02 âm lịch (14/03/2012): Lúc 6 giờ sáng, khi chuẩn bị làm thức ăn sáng cho Sư Ông tôi chợt nhìn vào phòng thì thấy Sư Ông đã mặc áo hậu lúc nào mà không ai hay biết, hỏi Thầy Luân, Thầy cũng không biết, ngay cả việc Sư Ông đi vào phòng vệ sinh cũng không ai biết luôn. Vì mọi ngày những việc sinh hoạt, hay việc đi vệ sinh của Sư Ông đều phải có người bên cạnh, để phụ đỡ cho Sư Ông đỡ nhọc. Vậy mà lần này Sư Ông tự làm một mình. Với vẻ mặt đầy hoan hỷ, Sư Ông mỉm cười và chỉ vào mình, ý nói hôm nay Ông mặc áo có đẹp không. Sau khi dùng tiểu thực, Sư Ông ra hiệu tụng kinh Phổ Hiền. Thật ra mấy tháng nay, Sư Ông tịnh khẩu niệm Phật nên không nói chuyện với ai hết, có cần gì thì Sư Ông ghi lên giấy nên ngay việc tụng kinh cũng tụng thầm. Tụng kinh xong Sư Ông đi ra vườn dạo và ngắm cảnh.

Khoảng 15 giờ chiều cùng ngày, Sư Ông ghi lên giấy dòng chữ:“Mới dứt được việc đời”. Không ai hiểu ý Sư Ông nên thưa hỏi, Sư Ông viết tiếp: “Có quyển kinh Mi Đà không?. Lúc lấy kinh đưa cho Sư Ông thì Sư Ông lật đến trang có câu “…văn thuyết A Mi Đà Phật chấp trì danh hiệu…”Sư Ông nói Ông niệm Phật được đến đây và dặn mọi người phải tập niệm Phật. Sư Ông dạy được đến chấp trì danh hiệu thì điều kỵ nhất là nói chuyện. Niệm Phật cứ ba câu lần một hạt. Một thời như vậy là một sâu, rồi sau tăng lần lên năm câu, bảy câu, mười câu. Một thời một xâu rất dễ nhiếp tâm.


ht-thich-tri-tinh-2
Thầy Tri Sự (Hoà Thượng Thích Hoằng Tri) thỉnh cầu Sư Ông trụ thế.



Hôm nay, Sư Ông hỏi là ngày mấy, được biết là ngày 25/02 âm lịch. Mấy bữa nay chân của Sư Ông bị sưng. Sư Ông nói: “Đây là triệu chứng khí nghịch, đàn ông sưng chân, đàn bà sưng mặt, triệu chứng sắp vãng sanh”, Sư Ông lại ghi ba câu:

“Chấp trì danh hiệu

Bất niệm tự niệm

Niệm lực tương tục”

Ba câu trên đồng một nghĩa. Ông chỉ được đến đó thôi , còn nhất tâm bất loạn tam muội khó lắm.

Buổi tối ngày 24, Sư Ông lại ghi trên bảng “ Vấn đề chỉ nội một tuần từ 24/03/âm lịch đến ngày 01/04 âm lịch”

09h sáng ngày 25, Hòa thượng Thiện Pháp đến. Sư Ông cũng lại ghi trên giấy là “Vấn đề giải quyết nội trong bảy ngày”, mọi người đều không hiểu rõ nên cứ gạn hỏi. Sư Ông mới ghi lên hai chữ “Hết Thở”. Lúc đó mọi người đều bàng hoàng lo sợ. Tất cả đều bật khóc, cảm thấy bất an trước những dòng chữ của Sư Ông. Tôi liền qua gấp báo cho Thầy Tri sự (HT. Hoằng Tri) hay, vừa run không thốt được ra lời, tôi gắng lấy lại bình tĩnh và nói từng chữ cho Thầy nghe. Thầy nghe xong nét mặt thay đổi hẳn, nước mắt như muốn trào ra. Thầy vội vàng chạy lên Sư Ông. Lúc đó Sư Ông đang dùng bữa.

Sư Ông lại ghi :”Bảy ngày cũng mau cứ để…” rồi Sư Ông nhìn mọi người với nụ cười hoan hỷ.


Sáng ngày 26, được tin Hòa Thượng ở Văn Phòng II lên thăm, Sư Ông ngồi chơi hồi lâu qua bàn lấy giấy ghi: “Ông không có bệnh hoạn gì hết, nghe êm ái nhẹ nhàng, ăn nhiều, ngủ yên, chỉ có yếu thôi vì tuổi cao (96 tuổi). Bây giờ chỉ lo tương lai cho đời sau, mấy huynh đệ phải lo đời hiện tại và luôn nhớ: Hãy khoan hồng tha thứ, biết thiện thì theo, nhớ phải ăn chay, không được ăn thịt chúng sanh cố gắng giữ,… nếu ăn thịt chúng sanh thì không còn gì nói nữa”.

Ngày 29, buổi sáng, Sư Ông đi ra ngoài dạo, ngắm cảnh và xem đồng hồ coi lịch ngồi bên khung cửa cạnh cây sala. Lúc đó, quý Thầy ở dưới chùa lên, y hậu chỉnh tề. Đi đầu là HT. Hoằng Thông, thầy Hoằng Tri, thầy Hoằng Chí,…tác bạch thỉnh Sư Ông trụ thế lâu dài, nhưng Sư Ông không nói gì, rồi đứng dậy đi thẳng vào phòng. Cứ như vậy, đại chúng đã bốn lần mời thỉnh mà Sư Ông vẫn yên lặng.

Trưa ngày 30, khi tôi bưng mâm cơm lên, vùa bước vào đến cửa thì Sư Ông chỉ tay hướng dẫn bưng vào phòng. Sư Ông kêu dọn ghế và ra hiệu bảo mọi người ngồi ăn cơm chung. Hôm nay là ngày thứ sáu kể từ ngày Sư Ông viết lên bảng nội dung trong bảy ngày. Thật ra, mấy tháng nay, Sư Ông không nhìn vào mâm cơm thế mà hôm nay lại kêu mọi người ăn chung, tất cả ai cũng nghĩ đây là bữa cơm cuối cùng.Mọi người đều yên lặng và ngậm ngùi. Dùng xong, một lần nữa thầy Tri Sự lại thỉnh cầu Sư Ông trụ thế nhưng cũng không được. Đến 06 giờ chiều, Sư Ông từ giường ngồi dậy thì liền hỏi: “Thầy Tấn (HT. Hoằng Tri) xin gì?”,

Mọi người đáp: “ Thầy xin Sư Ông trụ thế”.Sư Ông mới ghi: “ Bây biểu chúng nó đừng ăn thịt”Cô Biện (Phật tử): “Dạ ở đây ai cũng ăn chay hết”

Sư Ông đưa hai ngón tay lên và dang bàn tay ra hiệu, ý muốn nói là người ăn chay thì ít như hai ngón tay còn người ăn mặn thì đầy dẫy. Mọi người vừa thưa, vừa khóc. Sư Ông kết thúc bằng hàng chữ: “Ông tự biết mình phải làm gì!”

Vào lúc 04 giờ sáng, ngày 01/04 âl. Cũng là ngày cuối cùng trong kì hạn. Sư Ông dậy đi qua bàn ngồi thì liền hỏi “Thiệt hay giả”. Tất cả đều lúng túng không biết trả lời sao, người nói thiệt, người nói giả, còn Sư Ông thì chỉ lắc đầu.

Nhưng việc gì đến rồi cũng sẽ đến. Kỳ hạn ở lại cõi này của Sư Ông đã mãn. Thời gian trôi qua như tên bắn, phút chốc đã hai năm rồi, đến ngày Sư Ông cũng phải đi.

Những lời dạy Sư Ông phát ra đã in sâu vào tâm khảm của con và nó đã trở thành những kỷ niệm đáng nhớ, không gì có thể xóa nhòa được. Những kỷ niệm này sẽ theo con suốt cả cuộc đời và có thể mãi mãi đời sau nữa.

Chính những kỷ niệm này là kim chỉ nam để con làm hành trang trên bước đường tu tâm học Phật.

Con thành tâm cầu mong Tam Bảo gia hộ, tiếp dẫn Giác Linh Tôn Sư cao đăng Phật quốc, sớm trở lại hóa độ chúng sanh đồng lên bờ giác.

youtube
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
12/03/2011(Xem: 6055)
Phạm Công thiện, ông là ai? Có nhiều người đã hỏi như thế. Triết gia? Thiền sư? Thi sĩ? Văn sĩ? Hay là một người lang thang rong chơi trong cuộc đời ? Hay là nghệ sĩ với ước vọng thành một tài năng lớn của thế giới? Hoặc là một người đang trong cơn mộng du suốt cả đời? Trần Tuấn Kiệt trong một bài viết trong “Tác Giả Tác Phẩm“, xuất bản cách nay gần bốn chục năm, cũng nói về chân dung người thi sĩ rất mực nghệ sĩ này:
25/02/2011(Xem: 5932)
Lễ huý nhật Ôn Trí Thủ năm 2005 tại Quảng Hương Già Lam
19/02/2011(Xem: 4621)
Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Huyền Tôn, đệ tử của Đệ Lục Tổ Sư Thiên Ấn Tự, Hòa Thượng Tăng Cang Thích Chơn Trung, thế danh Nguyễn Thái Long, pháp danh Như Kế, pháp tự Giải Tích, pháp hiệu Huyền Tôn. Ngài sinh năm Mậu Thìn (1928.Việt lịch: 4807) tại làng Châu Nhai, Huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi, Việt Nam. Thân phụ, bán thế xuất gia là Đại Sư thượng Như hạ Quý (1874-1942), Thân mẫu là Cụ bà Thái Thị Túc, pháp danh Như Chỉnh, tự Giải Lý (1891-1945).
13/02/2011(Xem: 17068)
Ca Sĩ Gia Huy, Tên thật của Gia Huy là Đặng Quốc Hung. Anh đến Montreal, Canada vào năm 1991 để cùng đoàn tụ với gia đình. Anh hát lần đầu tiên tại vũ trường Chateau Du Parc tại Montreal. Lúc đó, anh hát với ban nhạc Phạm Mạnh Cường để trình bày những tác phẩm như "Máu Nhuộm Bãi Thượng Hải", "Mười Năm Tình Cũ" và "Lambada". Ngay sau lần trình diễn đầu tiên, Gia Huy trở thành một ấn tượng của dân chúng tại Montreal. Anh bắt đầu hát cho một số vũ trường tại địa phương như Bistro Dore, Miss Sai Gòn, và Đêm Sai Gòn. Tuy nhiên, mục đích của Gia Huy là nổi danh ngoài Canada và khuếch trương số khán thính giả đi khắp thế giới.
30/01/2011(Xem: 5098)
Hòa Thượng Thích Như Điển - Đệ Nhị Chủ Tịch Hội Đồng Điều Hành GHPGVNTN Âu Châu - Phương Trượng Chùa Viên Giác, Hannover, Đức Quốc
14/01/2011(Xem: 5222)
Hòa thượng họ Hồ Đắc, tên Cư, Pháp danh Tâm Thật, Pháp hiệu Thiện Châu, sinh ngày 23 tháng 2 năm 1931 tức ngày 7 tháng 1 năm Tân Mùi tại làng An Truyền, huyện Phú Vang, Tỉnh Thừa Thiên. Thân phụ Thầy là Cụ Hồ Đắc Phách, thân mẫu là Cụ Nguyễn Thị Cần. Thầy xuất gia năm 16 tuổi (1947) và thọ giới tỳ kheo năm 1952. Bổn sư của Thầy là Cố Đại Lão Hòa Thượng Thích Giác Nguyên, Viện chủ Tổ Đình Tây Thiên (Huế).
07/01/2011(Xem: 5697)
Ông vua đầu tiên của nhà Trần và cũng là một thiền sư cư sỹ, Trần Cảnh (Trần Thái Tông) (1218-1277) đã để lại một sự nghiệp chính trị, một dòng văn học bất hủ, đến bây giờ vẫn mãi là kim chỉ nam, ngọn đuốc soi đường trong đêm dài tăm tối, cho những ai tìm phương vượt thoát, lộ trình cho những ai muốn đưa dân tộc tìm tới đỉnh cao của nhân bản và an lạc.
05/01/2011(Xem: 4746)
Về việc Hòa Thượng Đôn Hậu lên núi, ra Bắc trong vụ Tết Mậu Thân được thầy Trí Tựu, Trú Trì chùa Linh Mụ thuật lại như sau: (lúc 12:00 giờ trưa, ngày 12-3-2009 tại chùa Linh Mụ) Vào khoảng quá nửa đêm tối Mồng một Tết Mậu Thân, có một phái đoàn gồm quân nhân và người mặc thường phục đến thăm Ôn. Ôn đang bị bệnh, bệnh suyễn và xuất huyết dạ dày. Thầy ngồi đàng xa. Thầy Trí Lưu, thân phụ của thầy Trí Siêu Lê Mạnh Thát, lúc đó là Tri Sự chùa Linh Mụ, ngồi gần Ôn. Họ mời Ôn về Huế họp. Ôn từ chối nói đau không đi được. Họ nói có người đưa Ôn đi. Sau đó người ta gánh Ôn đi trên một chiếc võng, từ chùa Linh Mụ, không về Huế mà rẽ về Chợ Thông thuộc làng An Ninh Hạ, đến La Chữ. Ban ngày núp, nghỉ, ban đêm đi. Sau một tháng đến Seopon giáp giới Lào. Máy bay trực thăng bay trên đầu mà không bắn. Trên đường đi, thiếu lương thực, bị hạm đội Mỹ pháo kích. Nhiều người bị chết vì đói và sốt rét. (Được kể lại sau 1975). Rồi sau đó từ Huế ra Hà Nội mất hết 4 tháng, đi theo đường Mòn Hồ Chí Minh đến
30/12/2010(Xem: 4677)
Nguyễn Du (1765-1820) tự là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên, biệt hiệu Hồng Sơn Liệp Hộ, Nam Hải Điếu Đồ, sinh trưởng trong gia đình phong kiến quý tộc có nhiều danh vọng, quê gốc ở làng Tiên Điền, Nghi Xuân, Hà Tĩnh. Cha và anh của ông giữ những chức vụ quan trọng trong phủ chúa Trịnh. Thời trẻ ông tập ấm một chức quan võ nhỏ của cha nuôi họ Hà ở Thái Nguyên. Năm 1787, Tây Sơn ra Bắc diệt Trịnh, ông bắt đầu thời kỳ “Thập tải phong trần” (Mười năm gió bụi). Sau ông phục vụ nhà Nguyễn, làm đến Hữu Tham tri Bộ Lễ, từng được cử làm chánh sứ đi sứ Trung Quốc.
30/12/2010(Xem: 4588)
Viết về cụ Nguyễn Du mà chúng ta không nói đến lòng thương vô hạn của cụ đối với chính mình đối với tha nhân, đối với xã hội thì đó là một vấn đề thiếu sót; viết về Nguyễn Du mà không nói đến Phật giáo thì đó cũng là một thiếu sót quang trọng, vì toàn bộ sự nghiệp văn thơ của cụ đều phát xuất từ hai quan điểm này để từ đó cụ gởi gắm tâm sự của cụ lại cho người hậu thế.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567