Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tiểu Sử Thượng Tọa Thích Phước Hựu (1932-2021)

27/12/202115:36(Xem: 2665)
Tiểu Sử Thượng Tọa Thích Phước Hựu (1932-2021)
tt phuoc huu-2

Vài Nét Tiểu Sử của cố
Thượng tọa Thích Phước Hựu


 

Kính bái bạch Chư Tôn đức Tăng, Ni

Kính thưa quý quan khách, quý thân hữu, cùng quý liên hữu Phật tử,

Kính thưa liệt quý vị,

 

Đôi lời giao cảm

Được chư Tôn đức Tăng, Ni trong GH và gia đình tin tưởng giao trách nhiệm cho chúng tôi biên soạn tiểu sử của TT. Thích Phước Hựu. Thú thật, những gì chúng tôi biết cũng như trong gia đình hiểu biết về thầy rất ít. Nhất là từng điểm móc thời gian, tức những năm tháng xảy ra những sự kiện hoạt động của thầy, và những quá trình tu học, hành đạo trong suốt thời gian thầy còn ở Việt Nam, phải nói rằng không ai biết rõ tất cả. Ngoại trừ chỉ có đương sự mới biết hết mà thôi. Do đó, nên trong bản tiểu sử này, chúng tôi chỉ nói một cách khái lược đơn sơ chung chung thôi, do đó, dĩ nhiên không thể nào đầy đủ mọi chi tiết hết được. Và do đó, tất nhiên, sẽ còn rất nhiều khuyết điểm thiếu sót. Vậy, kính mong chư Tôn đức Tăng, Ni và quý quan khách lượng tình hoan hỷ thứ lỗi bỏ qua cho những điều thiếu sót đó. Chúng tôi và gia đình xin chân thành đa tạ trước.


Tiểu Sử

 

Thượng tọa thế danh là Phan Văn Đạt, pháp danh Hồng Nhơn Pháp hiệu Phước Hựu, sanh ngày 8 tháng 7 năm 1932, tại thành phố Mỹ Tho, Huyện Châu Thành, Tỉnh Tiền Giang - Việt Nam. Thầy sinh ra trong một gia đình trung lưu nề nếp gia phong có truyền thống theo đạo Phật lâu đời. Thân sinh là cụ ông Phan Nguyên Súy và thân mẫu là cụ bà Hà Thị Mẹo. Cụ ông và cụ bà sanh được tất cả là mười người con, mà Thầy Phước Hựu là người con trai út trong gia đình. Vì thế, nên Thầy rất được cha mẹ và các anh chị em đem lòng thương mến. Tuy nhiên, rất tiếc, là cụ ông và cụ bà đã mất quá sớm nên Thầy đã phải chịu cảnh mồ côi mẹ vừa mới được tròn 6 tháng. Những tưởng mất mẹ thì còn có cha để sớm hôm phụng dưỡng hủ hỉ nương tựa lẫn nhau, nào ngờ đâu người cha cũng lại vắng số từ giã cõi đời vĩnh viễn ra đi, vào năm Thầy mới vừa tròn 8 tuổi.

 

Quả đúng là:

 

Còn cha còn mẹ thì hơn

Không cha không mẹ như đờn đứt dây.

 

Đó là nỗi bất hạnh đau thương nghiệt ngã đã phủ lên đầu của một cậu bé khôi ngô tuổi còn ngây thơ trong trắng. Còn nỗi đau xót nào hơn khi đã mất cả mẹ lẫn cha! Mất cha mẹ là mất đi tình yêu thương cao quý nhất của cuộc đời. Bấy giờ cậu bé họ Phan đã chới với hụt hẫng chẳng biết phải nương tựa vào ai! Ngay từ bước đầu đời, cậu bé đã phải gánh chịu nhiều nỗi gian truân đắng cay đau khổ bất hạnh. Chính vì nỗi buồn thương thân tủi phận đó, nên cậu bé phải nỗ lực tìm chỗ tựa nương cho an ổn tinh thần và tấm thân côi cút. Thế là, cậu bé chỉ còn có cách phải tìm vào chốn cửa Thiền, để ẩn náo nương nhờ cửa Phật; hầu để an ủi xoa dịu phần nào vết thương lòng ngút ngàn đau khổ, vì nỗi mất mát đau thương quá lớn lao!  Đó là quãng đời thơ ấu của thầy Phước Hựu tràn đầy gian nan và chịu đựng nhiều đắng cay khốn khó.

 

Có lẽ nhờ túc duyên Phật pháp trồng sâu trong nhiều đời, nên Thầy đã sớm biết đến Phật pháp. Năm lên 10 tuổi, Thầy đã được HT Linh Phước thương tình nên cho phép Thầy được thế phát xuất gia tu học tại chùa Linh Phước ở xã Bà Bèo thuộc tỉnh Đồng Tháp. Bấy giờ, Hòa thượng Linh Phước cho pháp danh Thầy là Quảng hạnh. Và kể từ đó Thầy đã trở thành một chú tiểu quét lá đa ăn cơm chùa.  

 

Vốn bẩm chất rất thông minh, học đâu nhớ đó, nên Thầy đã được thầy hiền bạn tốt mến thương. Được đầy đủ duyên lành, Thầy đã theo học trường đời và trường đạo. Về trường đời Thầy đã tốt nghiệp đại học và có văn bằng học vị cử nhân. Về trường đạo, thầy đã theo học tại Phật Học Đường Ấn Quang và tốt nghiệp đại học cử nhân Phật giáo. Cần nói thêm, Phật Học Đường Ấn Quang trước sau gồm có 4 khóa, mà Thầy là khóa thứ 3, tức cùng lớp với các Hòa thượng: Thắng Hoan, Đức Niệm, Liễu Minh, Như Huệ, Chơn Phát, Trí Quảng, Đồng Quy và Long Nguyệt v.v...

 

Sau khi mãn khóa tốt nghiệp ra trường, Thầy đã được bổ nhiệm về làm Giám viện tại Phật Học Viện Lưỡng Xuyên - Trà Vinh. Đó là lớp Sơ Đẳng Phật học mà Thầy phụ trách giảng dạy. Khóa học này với sĩ số tăng sinh trên dưới khoảng 30 vị. Về thời gian, thú thật, chúng tôi không nhớ rõ chính xác năm nào. Có điều tôi nhớ rất rõ là vào năm 1962, tôi có đến trường và gặp Thầy ở đó. Thầy có hai vị đệ tử học cùng chung lớp với tôi lúc tôi còn ở Phật Học Viện Phước Hòa -Trà Vinh. Hai vị đó được Thầy cho pháp danh là Huyền Châu và Huyền Cơ. Huyền Cơ đã mất cách nay khá lâu, còn Huyền Châu thì không biết còn hay mất vì lâu lắm rồi tôi không có dịp gặp lại.

 

Về sau, tôi biết Thầy có thời gian làm Chánh đại diện ở tỉnh Định Tường Mỹ Tho và thầy cũng đã đăng ký xin gia nhập trong Ban tuyên úy Phật giáo. Nha tuyên úy Phật giáo được thành lập từ năm 1963 đến năm 1975. Người đứng đầu tức Giám đốc Nha Tuyên Úy Phật giáo bấy giờ là cố Thượng tọa Thích Tâm Giác và phó là cố HT Thích Hộ Giác. Về sau là TT Thích Thanh Long, quyền Giám Đốc và thầy Minh Tâm, tức HT Thích Thiện Chánh làm phó giám đốc. Các vị sư tuyên úy đã được gắn lon sĩ quan giả định để ủy lạo, nâng đỡ tinh thần và làm những nghi thức tôn giáo trong những đơn vị quân đội. Nhằm khuyên lơn an ủi xoa dịu những nỗi khổ niềm đau cho các gia đình binh sĩ bệnh nhân thương phế binh.

 

Sau những biến cố thời cuộc đổi thay, thay đổi, thầy đã hoàn tục và có gia đình. Thầy đã lập gia đình với bà Phan Thị Sang pháp danh Diệu Minh và hiện có 4 người con: 1 trai ba gái. Cậu con trai thứ ba tên là Phan Xuân Phong và hiền thê là Sharon Trúc Phan. Trưởng nữ là Phan Thị Xuân Lan, thứ nữ là Phan Thị Xuân Trang và cô gái út là Phan Thị Xuân Mai. Và có 2 người rễ: Trương Ngọc Long là phu quân của cô Lan và Lê Nguyên Khoa là phu quân của cô Mai.

 

Về các cháu, thầy có tất cả là 7 đứa cháu, 2 đứa cháu nội và 5 đứa cháu ngoại. Chỉ vắng mặt 2 đứa cháu nội (ở Mỹ ) còn lại đều có mặt đầy đủ trong tang lễ hôm nay.

 

Vì có văn bằng cử nhân văn khoa, nên Thầy đã làm Hiệu Trưởng trường trung học Quốc Việt ở quận 8 - Sài Gòn, và làm Giám Thị ở trường Quốc Gia Nghĩa Tử, Hiệu trưởng trường trung học Bồ Đề Vũng Tàu.

 

Sau năm 1975, Thầy đã bị bắt đi tù cải tạo 2 năm. Thầy cùng gia đình đến Úc vào năm 1979. Sau khi đến Úc, Thầy đã tích cực tham gia hoạt động những công tác Phật sự cho GHPGVNTN tại tiển bang Victoria, dưới sự lãnh đạo của cố Đại lão Hòa thượng Thích Phước Huệ, nguyên Viện trưởng VHĐ GHPGVNTN Úc Đại Lợi và Tân Tây Lan, và nguyên Tông trưởng Tổ Đình Phước Huệ.

 

- Năm 1985, Thầy đảm nhận chức vụ Phó hội trưởng nội vụ dưới thời của TT Thích Phước Nhơn làm hội trưởng và sau đó TT Thích Phước Nhơn trở về Perth thì Thầy làm Quyền hội trưởng cho đến mãn nhiệm kỳ.

 

Sau khi xuất gia và phục giới trở lại, thì Thầy đã đảm nhận những chức vụ và những công việc mà Thầy phụ trách đáng kể như sau:

 

- Cố vấn đạo tràng Quang Minh

- Giảng viên và Giám học trường Phật học A Dục - Chùa Hoa Nghiêm, vùng Đông Nam Melbourne.

- Giảng viên khóa Học Hạnh Xuất Gia ở Chùa Quang Minh thời gian 4 năm

- Giảng dạy Phật pháp cho các đạo tràng: Phước Huệ, Quang Minh và Hoa Nghiêm.

Ngoài ra, Thầy còn giảng dạy giáo lý cho các khóa tu học do các chùa trong GH tổ chức. Nói chung, Thầy đã hợp lực cùng với quý thầy trong GH để giảng dạy hướng dẫn cho quý Phật tử tu học tại tiểu bang nhà.

 

Thầy đã bỏ nhiều thời giờ và công sức, dốc hết toàn tâm toàn ý vào việc nghiên cứu chuyên sâu về pháp môn Tịnh độ. Những kinh sách thầy viết và dịch đại khái gồm có:

 

- Tịnh Độ Uyên Nguyên

- Kinh Tịnh Độ

- Luận Tịnh Độ

- Thư gởi người em ... Và còn bao nhiêu tác phẩm khác nữa mà chúng tôi chưa được biết.

 

Trong Đại giới đàn đã được tổ chức long trọng tại chùa Ấn Quang vào ngày 20/10/2019, Thầy đã chính thức được tấn phong lên hàng giáo phẩm với phẩm vị là Thượng tọa. Mặc dù trước đó Thầy cũng đã được Đại hội đề nghị tấn phong lên hàng giáo phẩm rồi, song chưa có một buổi lễ chính thức tổ chức tấn phong long trọng.

 

Về giới hạnh, trong cương vị Trưởng Ban Hoằng Pháp, Thầy luôn sách tấn nhắc nhở quý huynh đệ nên thường xuyên tham dự vào những kỳ bố tát theo đúng tinh thần luật nghi mà Phật đã dạy.

 

Về hạnh tu, và hạnh nguyện của Thầy, thì những năm gần đây, thầy buông bỏ tất cả chỉ chuyên tâm bền chí niệm Phật, lúc nào trên tay của Thầy cũng không rời xâu chuổi trường. Thầy quyết chí niệm Phật cầu vãng sanh Cực lạc.

 

Tuổi đời của Thầy ngày càng cao, sức khỏe của Thầy ngày càng suy kém yếu dần, nhất là thính giác của Thầy ngày càng giảm sút suy yếu trầm trọng. Mỗi lần Thầy đến chùa Quang Minh để chứng minh lễ trai tăng, thầy trụ trì, lúc nào cũng kính lão đắc thọ, cho nên thầy trụ trì thỉnh Thầy đáp từ. Nhưng khổ nỗi, tai Thầy nghe không rõ những gì gia chủ tác bạch, cho nên tôi ngồi gần kế bên Thầy, Thầy bảo tôi khi nào gia chủ dứt lời, thì  khều nhẹ cho thầy biết, để Thầy đáp từ cho họ. Đây là điều bí mật chỉ có giữa tôi và Thầy biết thôi. Nêu lên sự kiện nhỏ này để thấy rằng, dù tuổi già sức yếu, tai điếc mắt mờ, nhưng Thầy vẫn cố gắng đến chùa để chứng minh trai tăng và những buổi lễ Phật sự quan trọng khác.

 

 Khi thầy trở bệnh nặng được đưa vào bệnh viện Royal Melbourne cấp cứu, và được điều trị tại đây, nhưng tiếc thay! vì đang ở trong thời kỳ đại dịch sự lây nhiễm ngày càng gia tăng, nên bệnh viện hạn chế tối đa số người đến thăm viếng.

 

Được biết, sau mấy ngày điều trị ở bệnh viện Royal Melbourne, đến sáng thứ 7 ngày 11/12/2021 ( nhằm ngày mùng 8 tháng 11 năm Tân Sửu ) lúc 11 giờ 15 phút, Thầy đã nhẹ nhàng trút hơi thở cuối cùng trong tiếng niệm Phật của quý thầy và gia đình. Thầy đã xả bỏ báo thân một cách an nhiên thanh thản nhẹ nhàng về cõi Phật.

 

Sự ra đi của Thượng tọa Thích Phước Hựu là một mất mát lớn lao không những cho Giáo Hội mà còn cho gia đình quyến thuộc trong nỗi thương tiếc vô vàn.

 

Nguyện cầu giác linh của Thượng tọa sớm tiêu diêu nơi Miền Cực lạc.

 

Nam Mô Hoan Hỷ Tạng Bồ tát ma ha tát

 

Thích phước Thái cùng gia đình pháp quyến hợp soạn

Đồng Kính bái


***
youtube
 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
18/07/2010(Xem: 6426)
Kính bạch Sư Tổ! Chúng con đang tập tiếp xúc với Người qua hình ảnh một bậc thầy già chốn núi rừng Dương Xuân. Một túp liều tranh, một bà mẹ già và với ba người đệ tử. Đó là khoảng thời gian hạnh phúc nhất của Sư Tổ. Người có thời gian chăm sóc mẹ già và trao truyền những hoa trái tu học cho những người học trò yêu quý. Xuất thân từ làng Trung Kiên – một vùng đất Phật giáo ở Quảng Trị, Sư Tổ đã đến chùa Thiên Thọ (Báo Quốc) núi Hàm Long – Huế, để xuất gia học đạo với Thiền sư Phổ Tịnh, lúc đó Người chỉ mới lên bảy tuổi. Đến năm 30 tuổi, nhận thấy nơi Sư Tổ có chí khí của một bậc Xuất trần nên Sư Tổ được Bổn sư phú pháp truyền đăng với bài kệ: Nhất Định chiếu quang minh Hư không nguyệt mãn viên Tổ tổ truyền phú chúc Đạo Minh kế Tánh Thiên.
04/07/2010(Xem: 9506)
-Người đi tiên phong và nỗ lực không mệt mỏi cho sự nghiệp phát triển trí tuệ, từ bi và hòa bình- -Nhà lãnh đạo toàn cầu trong phong trào vì hòa bình, nhân quyền và sức khỏe cộng đồng-
14/06/2010(Xem: 4482)
Hòa Thượng Thích Bích Nguyên là một trong những bậc cao Tăng thạc đức của Phật giáo Lâm Đồng. Ngài họ Nguyễn, húy là Tùng, sinh năm 1898 tại làng Duy Hòa, xã Triệu Hòa, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Thuở nhỏ, bẩm chất thông minh, đĩnh ngộ. Thời tráng niên, lập nghiệp ở Lào, Hòa Thượng nhân đọc báo Từ Bi Âm mà ngộ đạo, thấy rõ cuộc đời vô thường, nuôi chí xuất gia. Đến năm 29 tuổi (1927), Hòa Thượng mới có đủ nhân duyên đầu sư thọ giáo với Hòa Thượng PHƯỚC HUỆ, Trú trì chùa Hải Đức, Huế và đắc giới Sa di năm 1934. Năm 1936, ngài thọ Cụ túc giới với pháp hiệu BÍCH NGUYÊN, rồi theo học ở các lớp Phật học tại các Phật học viện Hải Đức, Bảo Quốc và Ấn Quang.
15/05/2010(Xem: 4333)
Thiền sư Khánh Hòa sinh năm 1877 tại làng Phú Lễ tỉnh bến Tre, xuất gia năm 19 tuổi tại chùa Khải Tường. Chí nguyện chấn hưng Phật giáo của ông phát sinh vào khoảng năm ông được bốn mươi tuổi. Ông du hành khắp các tổ đình và Nam Kỳ để gây ý thức chấn hưng và kêu gọi sự hợp tác của các bậc tôn túc.
19/03/2010(Xem: 6349)
Một cặp kính trắng với sợi dây vòng ra sau cổ, năm ba con khỉ nhảy tung tăng trên vai, trên đầu, tóc tai rối rắm, áo quần cái dài, cái ngắn, kiểu đàn ông, đàn bà, đầy màu sắc sặc sỡ …đây là dáng người anh Bùi Giáng chúng ta thường gặp trên những nẽo đường Sài Gòn năm 1975 … Sau năm 1975 , anh Bùi Giáng về ở chung với chúng tôi trong nội xá viện Đại học Vạn Hạnh cũ (222 Trương Minh Giảng, nay là Lê Văn Sĩ). Vào thời điểm này, Đại học Vạn Hạnh không còn hoạt động, nên nội xá chỉ còn một số ít người ở lại với Hòa thượng Viện trưởng Thích Minh Châu. Chúng tôi quản lý chung, chú Chơn Thuần đi chợ và thị giả cho Hòa thượng Viện trưởng, anh Trần Châu phụ trách an ninh, anh Bùi Giáng thì nhận nhiệm vụ đi mua lương thực.
10/03/2010(Xem: 5166)
Bản thân tôi (Tín Nghĩa), rất ít có dịp thân cận với Ôn Già Lam. Điều dễ hiểu, vì tôi không xuất thân từ Phật Học Viện. Vả lại, mỗi lần Ôn về Huế (Bảo Quốc), thường vào dịp đầu xuân, thì đa phần Ôn hay đàm luận Phật sự với quý Ôn lớn như Ôn Linh Mụ, Ôn Trúc Lâm, Ôn Linh Quang, Ôn Từ Đàm và Ôn Bảo Quốc, . . . Đầu năm, Ôn thường hay nghe Đại luật (tức là dạy luật Tứ phần) cho hai chúng Tỳ kheo và Tỳ kheo ni, thì tôi đạp xe ra học rồi về lại chùa. Vả lại, bổn phận của tôi ở chúng Trúc Lâm cũng tương đối bề bộn. Tuy thế, chính tôi lại có với Ôn ba kỷ niệm khó quên.
10/03/2010(Xem: 7647)
Bây giờ là những ngày cuối năm âm lịch. Thiên hạ cùng viết về Xuân, Tết. Tôi muốn viết về Ôn Già Lam và Tu viện Quảng Hương Già Lam. Ôn Già Lam là cách gọi tôn kính của những môn đệ và phật-tử hướng về Đại lão Hòa thượng Thích Trí Thủ, vị viện chủ sáng lập tu viện. Trong tu viện, tăng chúng khi nói về ngài thì chỉ dùng chữ “Ôn” một cách gần gũi. Còn tu viện Quảng Hương Già Lam thì vẫn thường được gọi với cái tên thật ngắn: chùa Già Lam.
10/03/2010(Xem: 6053)
Ôn Già Lam, chỉ ba tiếng ấy thôi cũng đủ làm ấm lòng bao lớp Tăng sinh của các Phật Học Viện: Báo Quốc - Huế, Phổ Đà - Đà Nẵng, Hải Đức - Nha Trang, Già Lam - Sài Gòn. Ba tiếng nói ấy như trái tim của Mẹ ấp ủ đàn con qua suốt quãng đời dãi dầu mưa nắng. Ôn Già Lam, người đã hy sinh suốt đời mình để phụng sự cho Phật pháp, đào tạo Tăng tài qua nhiều thế hệ. Ôn đã khai phóng tinh thần thế học cho Tăng sinh các Phật Học Viện.
10/03/2010(Xem: 12775)
Sau năm 75 các Phật Học Viện đều đóng cửa. Các tăng sinh tại các Phật Học Viện đều trở về chùa cũ của Thầy Tổ để sinh sống và tu học. Thật tế, tu thì có mà học thì hầu như không. Có chăng là Thầy dạy đệ tử trong chùa. Những chùa có ruộng đất thì thầy trò tự túc canh tác để sinh sống. Sinh hoạt giáo dục và đào tạo tăng ni trẻ đã không còn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567