Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Lời Dạy Đầu Tiên

05/11/202122:06(Xem: 2327)
Lời Dạy Đầu Tiên
                                 su ba dieu tam 11                                    Lời Dạy Đầu Tiên
                       Bài viết của Sa Di Ni Thích Nữ Quang Huệ do Cư Sĩ Diệu Danh diễn đọc




Ngày ấy cách đây khoảng 15 năm, một buổi sáng đủ duyên lành con về chùa lễ Phật, bỡ ngỡ không biết lạy Phật sao cho đúng. Trước chánh điện trang nghiêm con chắp tay quỳ xuống cúi đầu, khi con chuẩn bị đứng lên thì có một tà áo vàng đứng bên cạnh, con thật sự lo lắng và hồi hộp. Khi đứng hẳn lên, bên con là Sư Bà với ánh mắt hiền từ, giọng nói nhỏ nhẹ: „Để Sư bà dạy con cách lạy Phật“ và từ đó con biết thế nào là lạy Phật đúng ý nghĩa.

 

Nhân duyên kết nối nhân duyên, con được về chùa Bảo Quang tu tập. Nhưng một bước ngoặc lớn trong cuộc đời mà con chưa bao giờ nghĩ tới, chắc có lẽ do những kiếp trước con đã được kết duyên lành với Tam Bảo hay sao mà kiếp này về chùa Bảo Quang con được hầu Sư Cố 1. Những ngày đầu tiên Sư Cố dạy, con không thể hiểu được vì ngăn cách bởi ngôn ngữ vùng miền, nhưng với thời gian con làm quen dần ngôn từ hằng ngày của Sư Cố. Nhờ những tháng ngày hầu cạnh Sư Cố mà tâm trí con được mở mang, chí nguyện xuất gia của con ngày một thêm lớn.

 

Hạnh phúc thay duyên lành đã đến, con được xuất gia với Thầy con là Sư Cô Tuệ Đàm Nghiêm dưới sự chứng minh của Sư Cố và được thọ Sa di ni giới. Từ đó con được thuận duyên hầu cạnh Sư Cố con nhiều hơn.

 

Những lần hầu Sư Cố đi dạo, hay làm một việc gì đó, Sư Cố con thường nói ít, nhưng những cử chỉ hành động của Người đã dạy cho con bài pháp vô giá trên con đường tu tập chuyển hóa tâm thức.

 

Viết đến đây bao nhiều kỷ niệm dưới ngôi Già Lam Bảo Quang-Hamburg khi đựợc hầu Sư Cố gợi lại trong trí tưởng của con, không sao ngăn được dòng nước mắt, dù con đã cố gắng.

 

Con nhớ lắm, từng cử chỉ ánh mắt, từng nụ cười lời nói, dáng đi khoan thai. Con nhớ mãi, có một lần 4 giờ sáng con phải về cho kịp giờ làm, khi con sắp rời khỏi khuôn viên chùa, bỗng nhiên giọng Sư Cố vang vọng từ hướng cầu thang. „Con ơi! Nhớ lạy Phật xong rồi hãy về“. Lúc bấy giờ nhờ nương vào lời chỉ dạy của Sư Cố mà con chợt nhận ra rằng, dù là ở thế gian, trước khi rời khỏi nhà cũng phải thưa với ba mẹ, vậy tại sao trong chốn Thiền môn con không thực hiện được việc này. Con thật sự thấy có lỗi với chính bản thân. Bởi lời dạy lạy Phật của Sư Cố năm xưa vẫn còn vang vọng bên con: “Con biết không? Đức Phật đã đầy đủ mọi công đức, trí tuệ từ bi viên mãn“. Còn bản chất của chúng sanh là tự cao, tự đắc, ngạo mạn. Vì lẽ đó, chúng ta cần lạy Phật để thấy tâm mình sao nhỏ hẹp đồng thời lễ Phật là để ta dẹp bỏ ngã mạn cho chính mỗi người, nhờ đó mà mọi công đức được phát sanh và trí tuệ tăng trưởng. Lời chỉ dạy thâm tình đó của Sư Cố, Người mà con đã được nghe về đạo hạnh cao cả và tình thương bao la Sư Cố dành cho hàng Phật tử tại gia khắp bốn phương, nghĩa cử cao đẹp này con nguyện khắc dạ ghi tâm.

 

Những lúc hầu Sư Cố con đọc sách, hoặc nhiều việc khác v.v… Sư Cố luôn nhẹ nhàng chỉ dạy cho con. Một hôm Sư Cố gọi con đến bên cạnh và nói:

“Sư Bà không có gì cho con ngoài chữ Nhẫn để con làm hành trang tu tập cho những ngày sắp tới“. Lúc bấy giờ con cảm nhận được tình thương bao la mà Sư Cố đã dành cho con. Sư Cố đã chắp thêm cho con đôi cánh, để con bay cao, bay xa hơn nữa vào bầu trời trí tuệ. Trước thâm ân này con thầm hứa với mình, hãy nỗ lực trong mọi hoàn cảnh để đáp đền ơn đức cao vời này.

 

Thế rồi Sư Cố không còn khỏe như xưa nữa, đi lại khó khăn nhưng Sư Cố luôn khắc phục nhằm chia sẻ với chúng con việc hầu cạnh và thể hiện cho chúng con thấy Sư Cố là nguồn năng lượng từ bi vô bờ bến, con nhận ra rằng, thế nào là người từ bi đức độ, đạo hạnh cao cả. Sư Cố sẽ luôn là tấm gương sáng cho con vững bước trên con đường tu tập mà con đã chọn. Con nguyện sẽ cố gắng khắc phục mọi khó khăn noi gương đại hạnh của Người. Nghiêm trì giới luật tiến tu đạo nghiệp, không phụ công ơn giáo dưỡng cao dày của Sư Cố.

 

Cơn vô thường lại đến, Sư Cố nhẹ bước ra đi, dẫu con biết cái gì đã có sinh phải có diệt, có tụ phải có tán cũng như nước chảy xuôi đi không bao giờ trở lại, hoa tàn lá rụng là định luật tự nhiên. Nhưng đau xót thay trước sự mất mát to lớn này con không ngăn được nỗi niềm thương tiếc, con cố gắng không để giọt nước mắt tuôn chảy, ôi khó làm sao! Vì Sư Cố là bậc Tôn sư giáo dưỡng tác thành cho con giới thân huệ mạng, dìu dắt cho con từng bước trên nấc thang tìm về chánh pháp, trở về với Phật tánh như lời dạy thuở ban đầu của Sư Cố. Sư Cố ra đi không trở lại nữa rồi. Phải chăng Sư Cố muốn tròn hạnh nguyện là người cho đi không nhận lại bao giờ!...

 

Trong ý nghĩa cao thượng này, con thành kính đảnh lễ và tiễn biệt Giác Linh Sư Cố, nguyện Giác linh Sư Cố Cao đăng Phật Quốc.

 

Kính bái biệt Sư Cố,

Con: Sa di ni Thích Nữ Quang Huệ
Tại Giác Linh Đường Chùa Bảo Quang, ngày 02.09.2021




facebook

youtube



 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/08/2011(Xem: 4422)
'Vậy là đã 700 năm, 7 thế kỷ trôi qua từ khi Đức Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông viên tịch, thể nhập vào niết bàn an nhiên tự tại. Cả dân tộc Việt Nam đều được biết đến Ngài là một bậc quân vương anh minh của đất nước Đại Việt, mà cũng là một vị Sơ Tổ của dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử. Nói đúng hơn, Ngài là một vị “Vua Phật” của Việt Nam.
08/08/2011(Xem: 3904)
Lễ húy nhật cố Hòa thượng Thích Phước Huệ (1875 - 1963) - chùa Hải Đức
08/08/2011(Xem: 4415)
"Vì sao Thượng hoàng Trần Nhân Tông không ở lại Vũ lâm hay lựa chọn một nơi nào khác trên đất nước Đại Việt mà lại chọn Yên Tử để tu hành?" - Câu hỏi được phần nào lý giải trong tham luận của Nguyễn Trần Trương (Phó Ban Dân tộc tỉnh Quảng Ninh) trong Hội thảo tưởng niệm 700 năm ngày Đức vua
07/08/2011(Xem: 11543)
Nói đến tinh thần "Hòa quang đồng trần" tức là nói đến tinh thần nhập thế của đạo Phật, lấy ánh sáng của đức Phật để thắp sáng trần gian, “sống trong lòng thế tục, hòa ánh sáng của mình trong cuộc đời bụi bặm”, và biết cách biến sứ mệnh đạo Phật thành lý tưởng phụng sự cho đời, giải thoát khổ đau cho cá nhân và xã hội. Thời đại nhà Trần và đặc biệt vua Trần Nhân Tông (1258-1308) đã làm được điều này thành công rực rỡ, mở ra trang sử huy hoàng cho dân tộc.
04/08/2011(Xem: 4385)
Hòa thượng Thích Bích Lâm, nguyên Phó Viện trưởng Viện Hoằng đạo, Giáo hội Phật giáo Cổ truyền Việt Nam; nguyên Chánh Đại Diện GHPGCT Trung phần, Tổ thứ 3 Tổ đình Nghĩa Phương, Tổ Khai sơn các chùa thuộc Tông phong Tổ đình Nghĩa Phương, Tông trưởng Tông phong Tổ đình Nghĩa Phương (1921 - 1972).
30/07/2011(Xem: 5945)
Thế danh: Nguyễn Đình Mân, Pháp danh: Thị Uẩn, Pháp tự: Hạnh Đạo, Pháp hiệu: Thuần Phong, Đời thứ 42 thuộc dòng Thiền Lâm Tế.
28/07/2011(Xem: 4877)
Hòa Thượng Thích Đạt Hảo, Hòa thượng Thích Đạt Hảo thế danh Lê Văn Bân, pháp danh Tánh Tướng, pháp hiệu Đạt Hảo, sanh năm Đinh Tỵ (1917), tại ấp Bình Hữu, xã Đức Hòa Thượng, huyện Đức Hòa, tỉnh Gia Định (1). Sư là con út trong gia đình có 6 anh chị em, 2 người trai bốn người gái; đặc biệt cả nhà có 8 người đều lần lượt xuất gia tu hành: -Phụ thân Lê Văn Bộn (1876- 1943), pháp danh Tánh Từ, pháp hiệu Đạt Bi. -Mẫu thân Ngô Thị Cờ (1884-1941), pháp danh Tánh Niệm, pháp hiệu Đạt Phật. -Chị thứ 2 Lê Thị Tình (1901-1970), pháp danh Tánh Hóa, pháp hiệu Đạt Đạo. -Chị thứ 3 Lê Thị Ưa (1904- ?) pháp danh Tánh Viên, pháp hiệu Đạt Thông. -Chị thứ 4: Lê Thị Luận (1907- ?), pháp danh Tánh Minh, pháp hiệu Đạt Quang. Chị thứ 5 Lê Thị Nghị (1909- ?), pháp danh Tánh Hồng, pháp hiệu Đạt Tâm -Anh thứ 6 Lê Văn Kỉnh (1915-1962), pháp danh Tánh Kỉnh, Pháp hiệu Đạt Xương. -Em út là Hòa thượng Thích Đạt Hảo.
15/07/2011(Xem: 5719)
Thiền sư húy thượng NGUYÊN hạ BÀNG - ĐẠI NGUYỆN tự CHÍ NĂNG hiệu GIÁC HOÀNG , thế danh LÊ BẢN, sinh năm Canh Dần 1950, tại thôn An Ngãi, xã Nhơn An huyện An Nhơn tỉnh Bình Định. Ngài sinh trong một gia đình nhiều đời sùng kính Tam Bảo. Thân phụ: Cụ ông LÊ TRÀ, thân mẫu: Cụ Bà TRẦN THỊ TÁM. Ngài là anh cả trong gia đình gồm có năm người con.
24/06/2011(Xem: 4858)
Vua Lê Đại Hành mất vào năm 1005, các hoàng tử tranh giành ngôi vua tạo nên cảnh khổ đau tràn ngập cho Dân Tộc, bên trong bị nội loạn, bên ngoài bị ngoại xâm đe dọa. Trước những thảm trạng đen tối u ám và đầy dẫy những thống hận đó, Vạn Hạnh thiền sư xuất hiện như một thứ ánh sáng phi thường quét sạch vùng trời giông tố để đưa vận nước bước vào thời đại huy hoàng thịnh trị.
24/06/2011(Xem: 4870)
Trận chiến thắng Bạch Đằng của Ngô Vương Quyền năm 939 là một dấu mốc quan trọng trong lịch sử dựng nước của Việt Nam. Ngọn sóng Bạch Đằng Giang đã cuốn trôi đi nỗi đau nhục của người dân nô lệ, nhận chìm tham vọng của nòi Hán áp đặt lên đất nước ta trong suốt một ngàn năm. Từ đây Việt Nam không còn là một huyện lỵ của người Hán, từ đây một quốc gia đúng nghĩa đã xuất hiện dưới vòm trời Đông Á.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567