Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Lời ai điếu kính dân Hòa thượng Đệ tam Pháp chủ

24/10/202106:02(Xem: 2529)
Lời ai điếu kính dân Hòa thượng Đệ tam Pháp chủ


le tang-ht pho tue (21
Lời ai điếu kính dân Hòa thượng Đệ tam Pháp chủ



Than ôi!
Vô thường là lẽ thường, Đức Thế Tôn tịch diệt Song Lâm
Tịch diệt nào có diệt, Ngài Đạt Ma còn quảy gót về Tây.

Biển tử sinh sóng nước vẫn vơi đầy;
Miền Tịnh Độ, tháng ngày hằng giải thoát.

Cuối thu se lạnh xuyến xao;
Đầu đông lòng buồn dào dạt.

Đức Pháp Chủ tạm lánh hồng trần;
Các Giới Tử lệ sa nhòa nhạt.

Nhớ giác linh xưa.
Vóc hạc xương mai;
Mẫn tuệ tuyệt trác.

Ninh Bình thác tích, thuở đồng niên, xả tục xuất gia
Phúc Long quy đầu, vừa năm tuổi, quy y thế phát.
Đống Cao thập giới chu viên;
Quang Lãng Tỷ khiêu mô phạm.
Chùa Quán Sứ, giữ chức Duy Na.
Đất Hải Phòng, từng lưu y bát.
Nặng lòng thầy tổ, chùa Viên Minh kế vãng khai lai.
Nhẹ chuyện hồng trần, cảnh Quang Lãng liên đăng tục phát.

Hàng ngày vườn ruộng canh nông;
Tháng năm nghiên tầm Phật pháp.
Chẳng quản chiến tranh Pháp Mỹ, lòng sáng như gương.
Nào nề phong kiến thực dân, Bồ Đề vững chắc.

Hoa Nghiêm, Bát Nhã diệu lý thuộc lòng;
Pháp Hoa, Lăng Nghiêm, huyền cơ rõ biết.

Coi danh lợi như phù hoa;
Rõ tử sinh là chẳng thật.
Hữu xạ tự nhiên hương.
Vô tâm nơi được mất.
Gương sáng treo cao;
Gió từ quạt khắp.

Văn Quán, Vũ Lăng, Giang Xá, Lại Yên… hạ chủ Hà Tây;
Hà Nam, Hà Nội, Nam Định, Hưng Yên… giới sư Miền Bắc.
Hội đồng trị sự từng kinh qua: Phó chủ tịch, Kiểm soát, Ban tăng sự trung ương,
Nghiên cứu, giáo dục đã đảm trách: Ban giáo dục, Hiệu trưởng, Tạp chí tổng biên tập.

Trí sáng lãnh tụ Thiền Gia;
Đức lớn ngôi cao Đệ Nhất.

Kinh sách Phật học còn lưu: Từ điển, Bách Dụ, Di Đà, Bát Nhã, Pháp Hoa.
Đức hạnh tu hành tỏ rạng: Cần kiệm, Mộc mạc, Gần gũi, Trí tuệ, Uyên bác.


Vậy mà!

Sóng Sông Hồng con nước vẫn đầy vơi;
Chùa Viên Minh ngọn minh đăng vụt tắt.

Hàng giới tử, học đồ chúng con!
Nghẹn ngào trong cảnh biệt ly;
Thổn thức tưởng người đã khuất.
Giới châu tuệ mệnh lúc sơ cơ;
Sữa pháp cơm thiền khi non nớt.
Thân thừa tổ đức, sáng chiều cùng cuốc đất trồng rau.
Phụng sự thầy tài, khuya sớm hầu đọc kinh học luật.
Nơi tổ đường xưa cũ, ngọn nến mờ soi rõ chữ li ti.
Chốn đại điện uy nghi, hồi chuông ngân xua tan bao tất bật.
Rau muống, dưa cà, ngày tháng tiêu dao
Măng tre, tương chao, vun bồi khí chất.


le tang-ht pho tue (22



Ngoảnh đi đã hai mươi năm;
Ngẫm lại bao nhiêu được mất.
Theo hầu Đức Tổ: dự trai đàn, thụ giới, quy y.
Tùy tòng Trưởng Ban: tới Mặt trận, bình văn, duyệt sách.
Chưa tròn đức lớn: Đền ơn Ngài pháp tự truyền ban.
Lỗi hẹn nguyện xưa: Đáp nghĩa tổ học xong quay lại!

Âm thanh, tiếng pháp không quên;
Vóc dáng, hình hài, nhớ mãi;

Hôm nay!

Trước linh sàng trầm bay hương tỏa
Nhìn dung nghi thông thái, tiêu dao
Lòng con thổn thức nghẹn ngào
Nhớ ơn Thầy Tổ, lệ trào khóe mi.

Dẫu rằng biết sinh ly tử biệt
Định luật kia khắc nghiệt lắm thay

Thành tâm đối trước Đức Thầy.
Nguyện đem Phật pháp tháng ngày truyền trao.
Đèn Trí Tuệ, nêu cao không tắt
Kế nguyện Ngài, dìu dắt hậu lai
Thỉnh Tổ an tọa liên đài
Sa Bà tái hiện, cuộc đời nhờ ơn.

Nam mô Việt Nam Phật Giáo Giáo Hội, Hội đồng chứng minh ban, Đệ tam Pháp Chủ; Lâm Tế tông, Viên Minh tháp, Ma ha sa môn, Pháp húy thượng Phổ hạ Tuệ, hiệu Phổ Thông Hòa thượng Giác linh, thùy từ chứng giám.

Giới tử Thích Di Sơn – pháp tự Đức Hải bái khấp



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/11/2010(Xem: 6631)
Hoà Thượng thế danh Diệp Quang Tiền, pháp danh Tâm Khai, tự Thiện Giác, hiệu Trí Ấn Nhật Liên. Ngài sanh ngày 13 tháng 10 năm Quý Hợi (1923) tại thôn Xuân Yên, xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân phụ là cụ Diệp Chí Hoan; thân mẫu là cụ bà Phan Thị Đường. Hai cụ sinh hạ được 5 người con : 4 nam, 1 nữ - Ngài là con thứ trong gia đình, sau anh trưởng là Thầy Diệp Tôn (Thích Thiện Liên). Năm lên 6 tuổi (1928) gia đình Ngài dời về thôn Diên Sanh, xã Hải Thọ, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Thân sinh Ngài đã rước thầy Đồ Nho danh tiếng về nhà để dạy chữ Hán cho hai con. Hai anh em Ngài thường được cụ Đồ khen là thông minh, hứa hẹn một tương lai tốt đẹp. Năm lên 10 tuổi (1932), Ngài theo học Việt Văn tại thôn Diên Sanh.
02/11/2010(Xem: 6931)
Thành kính khẩn bạch đến chư Tôn Đức Tăng Già của quý Giáo Hội, quý Tự Viện, quý tổ chức Phật Giáo cùng toàn thể chư vị thiện nam tín nữ Phật tử: Đại Lão Hòa Thượng thượng Huyền, hạ Ấn, thế danh Hoàng Không Uẩn, sinh năm 1928 tại Quảng Bình, Việt Nam
01/11/2010(Xem: 943)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
01/11/2010(Xem: 33935)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
29/10/2010(Xem: 4729)
Kể từ khi vết tích của chùa Thiên Mụ được ghi lại đơn sơ trong sách Ô Châu Cận Lục vào năm 1553 (1), chùa đã tồn tại gần 450 năm cho đến ngày nay. Trải qua bao nhiêu cuộc bể dâu, chùa vẫn giữ được địa vị và vẫn đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống đạo và đời của dân Huế, nói riêng, và của dân cả nước, nói chung. Qua đầu thế kỷ 17, chùa đã thực sự đi vào lịch sử sau khi Nguyễn Hoàng vào xứ đàng trong để gây dựng cơ nghiệp đế vương với huyền thoại “bà tiên mặc áo đỏ” (9).
23/10/2010(Xem: 4678)
Trong Cây Có Hoa Trong Đá Có Lửa Kính Dâng Hòa Thượng Thích Như Điển nhân dịp mừng thọ 70 tuổi của Ngài và kỷ niệm 40 năm khai sơn Chùa Viên Giác tại Đức Quốc Tỳ Kheo Thích Nguyên Tạng “Trong Cây Có Hoa, Trong Đá Có Lửa” là lời pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên do Hòa Thượng Thích Như Điển nhắc lại trong thời giảng Pháp của Ngài mà tôi đã nghe được khi theo hầu Ngài trong chuyến đi Hoằng Pháp tại Hoa Kỳ năm 2006. Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen) là người Nhật, Ngài sinh năm 1200 và tịch năm 1253, thọ 53 tuổi. Ngài là Sáng Tổ của của Soto-Zen (Thiền Tào Động) của Nhật Bản, và là tác giả bộ sách nổi tiếng “Chánh Pháp Nhãn Tạng” “Ki no naka ni, hana ga aru (Trong cây có hoa), Ishi no naka ni, hi ga aru (Trong đá có lửa)” Đó là pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen), được Hòa Thượng Như Điển dịch sang lời Việt. Lời thơ quá tuyệt vời, tuy ngắn gọn nhưng dung chứa cả một kho tàng giáo lý về Nhân Duyên Quả của Đạo Phật.
23/10/2010(Xem: 4631)
Trong mười thế kỷ phong kiến Việt Nam, Trần Nhân Tông là một trong những ông vua giỏi và tài hoa bậc nhất. Lịch sử đã xem ông là “vị vua hiền” đời Trần, có công lớn trong sự nghiệp trùng hưng đất nước. Văn học sẽ nhớ mãi ông bởi những vần thơ thanh nhã, sâu sắc và không kém hào hùng.
23/10/2010(Xem: 4593)
Về sự nghiệp của vua Trần Nhân Tông, đã có rất nhiều tài liệu và bài viết về hai lần lãnh đạo quân dân nước ta đánh thắng giặc Mông - Nguyên, trị quốc an dân, đối ngoại và mở cõi, nên ở đây chúng tôi không lặp lại nữa, mà chỉ đề cập đôi nét đến nội dung khác về: Trần Nhân Tông - một hoàng đế xuất gia, một thiền sư đắc đạo và là sơ tổ lập nên dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử độc đáo của Việt Nam.
23/10/2010(Xem: 4921)
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa. Bác sĩ Nguyễn Văn Khỏe, một cây cột trụ của hội Lưỡng Xuyên Phật Học cũ đảm nhận trách vụ hội trưởng. Ông Mai Thọ Truyền giữ trách vụ tổng thư ký. Các thiền sư Quảng Minh và Nhật Liên đã triệt để ủng hộ cho việc tổ chức hội Phật Học Nam Việt. Thiền sư Quảng Minh được bầu làm hội trưởng của hội bắt đầu từ năm 1952. Năm 1955, sau khi thiền sư Quảng Minh đi Nhật du học, ông Mai Thọ Truyền giữ chức vụ hội trưởng. Chức vụ này ông giữ cho đến năm 1973, khi ông mất. Hội Phật Học Nam Việt được thành lập do nghị định của Thủ Hiến Nam Việt ký ngày 19.9.1950. Bản tuyên cáo của hội có nói đến nguyện vọng thống nhất các đoàn thể Phật giáo trong nước. Bản tuyên cáo viết: "Đề xướng việc lập hội Phật học này. Chúng tôi còn có cái thâm ý đi đến chỗ Bắc Trung Nam sẽ bắt tay trên nguyên tắc cũng như trong hành động. Sự
23/10/2010(Xem: 4644)
Cư sĩ Mai Thọ Truyền sinh ngày 01-4-1905 tại làng Long Mỹ, tỉnh Bến Tre trong một gia đình trung lưu. Thuở nhỏ ông được theo học tại trường Sơ học Pháp - Việt Bến Tre, rồi Trung học Mỹ Tho, và Chasseloup Laubat Saigon. Năm 1924, ông thi đậu Thư ký Hành chánh và được bổ đi làm việc tại Sài Gòn, Hà Tiên, Chợ Lớn. Năm 1931, ông thi đậu Tri huyện và đã tùng sự tại Sài Gòn, Trà Vinh, Long Xuyên và Sa Đéc. Hành nhiệm ở đâu cũng tỏ ra liêm khiết, chính trực và đức độ, không xu nịnh cấp trên, hà hiếp dân chúng, nên được quý mến.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567