Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chấp Đối Dâng Đảnh, Cung Kính Bái Bạch Giác Linh Đức Tổ- Viên Minh Tịnh Xứ. Đức Đại lão Hòa thượng Thích Phổ Tuệ (1917-2021) | quangduc.com

22/10/202104:53(Xem: 3600)
Chấp Đối Dâng Đảnh, Cung Kính Bái Bạch Giác Linh Đức Tổ- Viên Minh Tịnh Xứ. Đức Đại lão Hòa thượng Thích Phổ Tuệ (1917-2021) | quangduc.com
ht pho tue (6)


Chấp Đối Dâng Đảnh..!

       Cung Kính Bái Bạch Giác Linh Đức Tổ- Viên Minh Tịnh Xứ.
       Đệ Tử Chúng Con, Tk: Minh Thế vọng Bái Giác Linh Đức Trưởng Lão Đệ Tam Pháp Chủ: Cung duy Vọng đối dâng đảnh:
         Chữ Hán:
                  “普 願 群 迷, 開 心 佛 學, 供 維 桅 第 三 法 主, 祖 祖 將 傳,  戒 律 行 密 印 指 花 藏 松 林.
                    慧 覺 恩 師, 圓 明 繼 位, 稱 尊桅 壇 主 和 尚, 處處 清 歸, 脈 法 禪 家 敕 行 清 貧 農 增.”

     
 Âm:

       “Phổ Nguyện Quần Mê, Khai Tâm Phật Học,Cung Duy Ngôi Đệ Tam Pháp Chủ, Tổ Tổ Tương Truyền, Giới Luật Hạnh Mật Ấn Chỉ Hoa Tạng Tùng Lâm.
       Tuệ Giác Ân Sư, Viên Minh Kế Vị, Xưng Tôn Ngôi Đàn Chủ Hoà Thượng, Xứ Xứ Thanh Quy, Mạch Pháp Thiền Gia Sắc Hạnh Thanh Bần Nông Tăng….”
         
Dịch:

         “Phổ Nguyện Muôn Loài, Phật Học Rạng Ngời Sáng Chói Khắp Nơi, Đại Tăng Cung Duy Lên Ngôi Pháp Chủ Đức Đệ Tam, Tổ Tổ Truyền thừa,  Ngài Luôn Trì Giới Luật, Để Ấn Pháp Hoa Tạng Bửa Khắp Các Chốn Thiền Môn.
          Tuệ Giác Bậc Thầy, Tiếp Nối Thừa Hành Kế Vị Trú Trì, Ngài Diễn Thông Trì Luật Lên Ngôi Đàn Chủ Hoà Thượng, Nơi Nơi Quay Về, Ngài Học Từ Pháp Mạch, Trong Thanh Thiết Chân Chất Một Vị Lão Tăng Nông Thiền….”
       
Phúc Duyên Cung Đối:

        Hàng hậu học chúng con, Tk Thích Minh Thế, được nhân duyên 10 năm liên tiếp hầu cận học tập mỗi khi Xuân về, chúng con lắng nghe pháp âm của Đức Tổ Sư Đệ Tam Pháp Chủ, trao cho chúng con, những lúc hạnh phúc nhất chính là bình an bên Đức Tổ Sư nhiều nhất.
       
Chúng con nhớ Đức Tổ có dạy rằng:

      "Suốt đời Thầy chỉ mong được niệm Phật, cầu kinh, không mong cầu danh lợi. Thầy tự thấy mình chưa có công đức gì nhiều đối với Giáo hội...Lẽ ra, ngôi vị Pháp chủ chỉ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni có đầy đủ phúc đức, trí tuệ nắm giữ...Chùa to cảnh lớn dù sao cũng chỉ là phương tiện, nên không quan trọng trong việc quyết định thành tựu của người tu..."
       
Rồi Đức Tổ bảo tiếp:

        "Tuổi thọ không phải là thước đo giá trị của đời người. Vấn đề là sống để thực hiện sứ mệnh gì, mang lại lợi ích gì cho Đời, cho Đạo. Ngài Trần Nhân Tông chỉ ở đời có 51 năm, ngài Pháp Loa có 47 năm mà sự nghiệp thì bất khả tư nghì."
       
Chúng con bạch:

        “Bạch Đức Tổ, Một đời Huân Tu nên suy ngẫm điều gì..? “
         
Đức Tổ đáp:

         "Tu là gì?  Con biết không Minh Thế, Tu là sửa chữa những tai hại, sai lầm cho mình và cho người..Tôi cũng luôn dạy các đệ tử không được lạm dụng một bát gạo, một đồng tiền của tín thí thập phương, mà phải tự mình vừa cày cấy làm ăn, vừa truyền bá giáo lý đạo Phật đem lại lợi lạc cho đời.."
         
Kế đến Đức Tổ dạy cho pháp lục hoà:

        "Đạo nghĩa Lục hòa vốn là điều căn bản của Phật giáo. Thân hòa cùng ở; miệng hòa không cãi nhau; ý hòa cùng vui vẻ; giới hòa cùng tu; kiến hòa cùng giải - thấy biết kiến thức thì chia sẻ cho nhau hiểu; lợi hòa cùng chia - có của cải, lợi ích thì chia cân nhau không ai tranh tham phần hơn cho mình...Nếu tinh thần lục hòa của Phật giáo mà được đem áp dụng vào đời thì trên từ quốc gia, dưới đến gia đình, khắp nơi đều an lạc vui vầy."
         
Và rồi, Đức Tổ dạy cho pháp học về cách nhìn tuổi thọ, Đức Tổ chỉ bảo vào bình hoa và vấn thị:

         "Muốn sống lâu trước hết phải sạch sẽ từ thân đến tâm... Về tinh thần, cần tu tâm dưỡng tính, tiết chế mọi ham muốn dục vọng, sống trong tinh thần lục hòa thì sẽ tăng được tuổi thọ. ..Nhưng dù sao, cũng không thể loại trừ được vô thường của sinh lão bệnh tử, vì đó là quy luật của mọi kiếp nhân sinh..."
         
Chúng con biết, cách sống của Đức Tổ như viên Ngọc minh châu trong chéo áo Như Lai, ở Pháp hoa kinh, khi trong sáng như Nông thiền.

        Vào nhân duyên ấy, là mùa Xuân 2010, chúng con được sự chỉ dạy sâu lắng lúc Đức Tổ tuồi ngoài 94.
        Vậy là, hôm nay chúng con mất đi pháp âm, vị Bồ Tát hiện thân Hoa Tạng giới, cõi Tỳ Lô.
       Chúng con biết rằng: Sanh Tử Như Tổ Gọi Phật Rước Tổ Về Chốn Thiền Gia Liên Đài.
       
Nhớ lời Đức Tổ trao thi kệ:

        “ Minh Hành Gia Tâm Hỷ.
          Thế Phú Thọ Khắc Kinh.
          Không Thành Sắc Bạch Tuệ.
          Ứng Giới Pháp Uy Linh”

ht pho tue (1)ht pho tue (2)ht pho tue (3)ht pho tue (4)ht pho tue (5)



Và đây cũng là thi kệ tu học, trong suốt quá trình Vân du, đồng thời Năm 2016, chúng con về chốn Tổ Viên Minh, cung thỉnh Đức Tổ vào ngôi vị chứng minh Pháp bảo khắc kinh: Lăng Nghiêm, Pháp Cú, và các mộc bản do con Minh Thế trì nguyện để khắc.

         
Đức Tổ đã tác chứng cho chúng con.

Hôm nay, chúng con vọng về giác linh đài nơi chốn Tổ Viên Minh- Phú Xuyên- Hà Nội. Lưu nhục thân Đức Tổ.
         
Chúng con cung kính Bạch Vọng.

Nam Mô Diệu Kính Bảo Tháp ma ha tỷ khiêu Bồ tát giới pháp danh  Thích Phổ Tuệ đạo hiệu Phổ Thông thiền gia pháp chủ đại lão hòa thượng Nhục Thân Bồ Tát  thiền tọa hạ.

Thành Tâm Cung Kính Khể Thủ Lễ.

                 Tk: Thích Minh Thế
                 Bút danh: Hỷ Tâm Hải Triều.
                 Bút hiệu: Tịnh Nhật Vân Quang
                 Ngày 21-10-2021
                 Ngày Âm Lịch: 16-09-Tân Sửu.
Viết tại Thiền Thất Phổ Tịnh- Hà nội, nhân mùa  Thu xứ Hà Nội Cố Hương,  giữa mùa bệnh viên phổi COVID-19. Từ nơi xa ấy vọng về tâm hương…!





ht pho tue

Tiểu sử Đức Pháp chủ GHPGVN
Đại lão Hòa thượng Thích Phổ Tuệ (1917-2021)



1. Thân thế

Đại lão Hòa thượng Thích Phổ Tuệ, thế danh Bùi Văn Quý, sinh ngày 12-4-1917 tại thôn 5, xã Phùng Thiện, tổng Bồng Hải, nay là thôn Phùng Thiện, xã Khánh Tiên, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình. Thân phụ là cụ ông Bùi Quang Oánh, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Thinh. Song thân của ngài đều là những Phật tử thuần thành. Ngài là người con thứ 2 trong gia đình có 3 anh em.



2. Hành trạng - Xuất gia tu học

Vốn được sinh ra trong gia đình có truyền thống thâm tín Phật pháp, cho nên hạt giống bồ-đề của ngài sớm nảy nở, lên 9 tuổi (tức năm 1925), ngài được song thân cho đến chùa ở với Sư cụ Thích Đàm Cơ, trụ trì chùa Phúc Long, thôn Phú An, xã Khánh Phú, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình và được Sư cụ cho theo học chữ Nho với cụ đồ Hiệng nổi tiếng trong vùng.

Năm ngài 13 tuổi (tức năm 1929) Đại lão Hòa thượng được Sư cụ cho đến làm đệ tử Sư tổ Thích Nguyên An, trụ trì chốn tổ Vọng, xã Yên Đồng, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định. Trải qua 3 năm tu học, đến năm 16 tuổi (tức năm 1932), ngài được Sư tổ Vọng cho thụ giới Sa-di tại Giới đàn hạ trường chùa Đống Cao, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định.



Năm 18 tuổi (tức năm 1934), Đại lão Hòa thượng đến sam học và y chỉ vào Sư tổ Thích Quảng Tốn, trụ trì tổ đình Viên Minh, thôn Khai Thái, xã Tầm Khê, huyện Phú Xuyên, tỉnh Hà Đông (nay là xã Quang Lãng, huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội). Khi vừa tròn 20 tuổi (tức năm 1936), Ngài được thụ Cụ túc giới và Bồ-tát giới tại Đại giới đàn tổ đình Viên Minh, do Sư tổ Thích Quảng Tốn làm Đàn đầu Hòa thượng.

Sau khi đầy đủ giới pháp, ngài bắt đầu quá trình sam phương cầu đạo. Ngài đến sam học ở hầu hết các sơn môn, tổ đình lớn thời bấy giờ như sơn môn Tế Xuyên, sơn môn Hương Tích, tổ đình Vĩnh Nghiêm...

Tiểu sử Đức Pháp chủ GHPGVN - Đại lão Hòa thượng Thích Phổ Tuệ (1917-2021) ảnh 2

Đại lão Hòa thượng trong lễ cầu nguyện tại chùa Quán Sứ, Hà Nội


- Hoạt động Phật sự:

Từ năm 1952 Ngài vẫn du hành đạo tại chùa Linh Ứng, thôn Kim Đới I, xã Hữu Bằng, huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng. Đến năm 1957, ngài lại trở về hầu thầy phụng Phật tại tổ đình Viên Minh, xã Quang Lãng, huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội.

Năm 1961, Sư tổ Thích Quảng Tốn trụ trì đời thứ hai tổ đình Viên Minh viên tịch, ngài được kế đăng làm trụ trì đời thứ ba tổ đình Viên Minh từ đó cho đến nay.

Đến năm 1987, Đức Đệ nhất Pháp chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam cử ba vị cao Tăng là cố Hòa thượng Thích Kim Cương Tử, cố Hòa thượng Thích Thiện Siêu và cố Hòa thượng Thích Tâm Thông về tổ đình Viên Minh mời ngài lên Hà Nội chủ trì hiệu đính Đại tạng kinh Việt Nam và tham gia các hoạt động Phật sự của Giáo hội. Từ đó, ngài đã đảm nhiệm nhiều chức vụ trong các cấp Giáo hội qua các thời kỳ như sau:

- 1993 - 2008: Trưởng ban Trị sự GHPGVN tỉnh Hà Tây.

- 1993 - 2008: Hiệu trưởng Trường Trung cấp Phật học Hà Tây.

- 1992 - 1997: Hội đồng Trị sự GHPGVN.

- 1997 - 2007: Phó Chủ tịch HĐTS kiêm Phó Ban Tăng sự Trung ương GHPGVN.

- 2002 - 2007: Phó Pháp chủ kiêm Chánh Thư ký Hội đồng Chứng minh GHPGVN.

- 2003 - 2007: Viện trưởng Phân viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam tại Hà Nội.

- 2003 - 2007: Tổng Biên tập tạp chí Nghiên cứu Phật học Việt Nam.

- 2007 - nay: Pháp chủ Hội đồng Chứng minh GHPGVN.

- 2009 - nay: Đường chủ các hạ trường tại các tỉnh, thành phố.

- 2009 - nay: Đàn đầu Hòa thượng các Đại giới Đàn tại các tỉnh, thành phố.

Bên cạnh việc đảm nhiệm các chức vụ Giáo hội, ngài cũng có nhiều công lao đóng góp cho sự nghiệp đại đoàn kết dân tộc, từ phong trào bình dân học vụ đến phong trào xây dựng hợp tác xã sau khi hoà bình lặp lại. Cùng với việc chăm lo chùa cảnh góp phần xây dựng quê hương, ngài là bậc chân tu, luôn giữ tình đoàn kết các tôn giáo xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Ngài tham gia làm Ủy viên Ủy ban Trung ương MTTQVN nhiều khoá, từ khoá 4 đến khoá 9 hiện nay.


- Tác phẩm dịch thuật và trước tác

Ngài là bậc cao Tăng thông tuệ am hiểu Tam tạng thánh giáo. Đặc biệt, ngài có nhiều đóng góp quan trọng trong việc biên soạn, dịch thuật và trước tác các tác phẩm về Phật học ở Việt Nam. Ngài dành cả cuộc đời cho sự nghiệp biên soạn, chú giải Đại Từ điển Phật học. Chú giảng và thuyết giảng kinh Lăng Nghiệm Đề cương kinh Pháp Hoa, kinh Bách dụ, Phật Tổ tam kinh, Phật học là tuệ học, kinh Di Đà Viên Trung sao, Bát Nhã Dư âm. Các bộ Luật Tỷ-khiêu, Luật Tỷ-khiêu-ni lược ký.

Ngoài những tác phẩm biên soạn, dịch thuật và trước tác về Phật học nêu trên, ngài cũng sáng tác nhiều bài thơ Đường luật, theo thể thất ngôn bát cú để sách tiến hàng hậu học trong các khoá an cư kết hạ.

- Ghi nhận công đức

Trong suốt cuộc đời hành đạo tại tổ đình Viên Minh, cũng như quá trình tham gia các hoạt động Phật sự của Giáo hội và xã hội, Đại lão Hòa thượng đã có nhiều đóng góp cho Đạo pháp và Dân tộc. Công đức ấy luôn được Giáo hội và Nhà nước trân trọng ghi nhận, trao tặng nhiều phần thưởng cao quý như: Huân chương Hồ Chí Minh; Huân chương Độc lập hạng Nhì; Huân chương đại đoàn kết dân tộc; Huy chương vì sự nghiệp đại đoàn kết dân tộc, Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ, Bằng khen của Uỷ ban Trung ương MTTQVN và nhiều Bằng tuyên dương công đức của Giáo hội.


3. Thời kỳ viên tịch

Trải qua 105 năm hiện diện ở cõi sa-bà, với 85 hạ lạp, trên ngôi vị Pháp chủ GHPGVN, ngài đã trọn đời hiến dâng cho lý tưởng hoằng pháp lợi sinh. Công đức của ngài đã góp phần to lớn vào sự nghiệp làm sáng danh đạo Phật và dân tộc Việt Nam. Cuộc đời ngài từ sơ tâm xuất gia cho đến lúc hoá duyên đã mãn luôn luôn là tấm gương chiếu sáng trong công phu tu thân, hành đạo cho cả giới xuất gia và tại gia. Ngài luôn lấy giới hạnh tinh nghiệm làm thân giáo để răn dạy, sách tấn hàng hậu học. Cuộc đời ngài là biểu tượng tinh thần Bi - Trí - Dũng.

Đặc biệt trong công hạnh vô ngã vị tha, tận lực chuyên tâm vào sự nghiệp hoằng dương chính pháp, phục vụ nhân sinh, xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc ngày càng vững mạnh.

Thời khắc thiêng liêng tương hội, công đức hóa duyên viên mãn, Đức Đại lão Hòa thượng Pháp chủ GHPGVN đã thâu thần thị tịch vào hồi 3 giờ 20 phút ngày 21-10-2021 (nhằm ngày 16-9-Tân Sửu) tại tổ đình Viên Minh, xã Quang Lãng, huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội. Ngài ra đi để lại trong lòng môn đồ tứ chúng, Tăng Ni Phật tử Việt Nam trong và ngoài nước niềm kính thương vô hạn, kính tiếc vô cùng. Ngài ra đi nhưng cuộc đời đức hạnh của ngài mãi mãi hằng hữu trong trang sử huy hoàng của Phật giáo Việt Nam thời hiện đại.

Nam-mô Việt Nam Phật giáo Giáo hội Hội đồng Chứng minh Đức Pháp chủ Ma-ha sa-môn Tỷ-khiêu - Bồ-tát giới Pháp húy thượng Phổ hạ Tuệ Đại lão Hòa thượng Giác linh thiền tọa hạ.




facebook

youtube

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/11/2010(Xem: 732)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
01/11/2010(Xem: 33681)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
29/10/2010(Xem: 4668)
Kể từ khi vết tích của chùa Thiên Mụ được ghi lại đơn sơ trong sách Ô Châu Cận Lục vào năm 1553 (1), chùa đã tồn tại gần 450 năm cho đến ngày nay. Trải qua bao nhiêu cuộc bể dâu, chùa vẫn giữ được địa vị và vẫn đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống đạo và đời của dân Huế, nói riêng, và của dân cả nước, nói chung. Qua đầu thế kỷ 17, chùa đã thực sự đi vào lịch sử sau khi Nguyễn Hoàng vào xứ đàng trong để gây dựng cơ nghiệp đế vương với huyền thoại “bà tiên mặc áo đỏ” (9).
23/10/2010(Xem: 4634)
Trong Cây Có Hoa Trong Đá Có Lửa Kính Dâng Hòa Thượng Thích Như Điển nhân dịp mừng thọ 70 tuổi của Ngài và kỷ niệm 40 năm khai sơn Chùa Viên Giác tại Đức Quốc Tỳ Kheo Thích Nguyên Tạng “Trong Cây Có Hoa, Trong Đá Có Lửa” là lời pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên do Hòa Thượng Thích Như Điển nhắc lại trong thời giảng Pháp của Ngài mà tôi đã nghe được khi theo hầu Ngài trong chuyến đi Hoằng Pháp tại Hoa Kỳ năm 2006. Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen) là người Nhật, Ngài sinh năm 1200 và tịch năm 1253, thọ 53 tuổi. Ngài là Sáng Tổ của của Soto-Zen (Thiền Tào Động) của Nhật Bản, và là tác giả bộ sách nổi tiếng “Chánh Pháp Nhãn Tạng” “Ki no naka ni, hana ga aru (Trong cây có hoa), Ishi no naka ni, hi ga aru (Trong đá có lửa)” Đó là pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen), được Hòa Thượng Như Điển dịch sang lời Việt. Lời thơ quá tuyệt vời, tuy ngắn gọn nhưng dung chứa cả một kho tàng giáo lý về Nhân Duyên Quả của Đạo Phật.
23/10/2010(Xem: 4597)
Trong mười thế kỷ phong kiến Việt Nam, Trần Nhân Tông là một trong những ông vua giỏi và tài hoa bậc nhất. Lịch sử đã xem ông là “vị vua hiền” đời Trần, có công lớn trong sự nghiệp trùng hưng đất nước. Văn học sẽ nhớ mãi ông bởi những vần thơ thanh nhã, sâu sắc và không kém hào hùng.
23/10/2010(Xem: 4554)
Về sự nghiệp của vua Trần Nhân Tông, đã có rất nhiều tài liệu và bài viết về hai lần lãnh đạo quân dân nước ta đánh thắng giặc Mông - Nguyên, trị quốc an dân, đối ngoại và mở cõi, nên ở đây chúng tôi không lặp lại nữa, mà chỉ đề cập đôi nét đến nội dung khác về: Trần Nhân Tông - một hoàng đế xuất gia, một thiền sư đắc đạo và là sơ tổ lập nên dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử độc đáo của Việt Nam.
23/10/2010(Xem: 4875)
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa. Bác sĩ Nguyễn Văn Khỏe, một cây cột trụ của hội Lưỡng Xuyên Phật Học cũ đảm nhận trách vụ hội trưởng. Ông Mai Thọ Truyền giữ trách vụ tổng thư ký. Các thiền sư Quảng Minh và Nhật Liên đã triệt để ủng hộ cho việc tổ chức hội Phật Học Nam Việt. Thiền sư Quảng Minh được bầu làm hội trưởng của hội bắt đầu từ năm 1952. Năm 1955, sau khi thiền sư Quảng Minh đi Nhật du học, ông Mai Thọ Truyền giữ chức vụ hội trưởng. Chức vụ này ông giữ cho đến năm 1973, khi ông mất. Hội Phật Học Nam Việt được thành lập do nghị định của Thủ Hiến Nam Việt ký ngày 19.9.1950. Bản tuyên cáo của hội có nói đến nguyện vọng thống nhất các đoàn thể Phật giáo trong nước. Bản tuyên cáo viết: "Đề xướng việc lập hội Phật học này. Chúng tôi còn có cái thâm ý đi đến chỗ Bắc Trung Nam sẽ bắt tay trên nguyên tắc cũng như trong hành động. Sự
23/10/2010(Xem: 4601)
Cư sĩ Mai Thọ Truyền sinh ngày 01-4-1905 tại làng Long Mỹ, tỉnh Bến Tre trong một gia đình trung lưu. Thuở nhỏ ông được theo học tại trường Sơ học Pháp - Việt Bến Tre, rồi Trung học Mỹ Tho, và Chasseloup Laubat Saigon. Năm 1924, ông thi đậu Thư ký Hành chánh và được bổ đi làm việc tại Sài Gòn, Hà Tiên, Chợ Lớn. Năm 1931, ông thi đậu Tri huyện và đã tùng sự tại Sài Gòn, Trà Vinh, Long Xuyên và Sa Đéc. Hành nhiệm ở đâu cũng tỏ ra liêm khiết, chính trực và đức độ, không xu nịnh cấp trên, hà hiếp dân chúng, nên được quý mến.
23/10/2010(Xem: 7544)
Trong lịch sử dựng nước, giữ nước và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc của dân tộc Việt Nam, vương triều Trần (1226-1400) được tôn vinh là triều đại sáng chói nhất thể hiện qua những chiến công hiển hách thắng giặc ngoại xâm cũng như chính sách hộ quốc an dân đã tổng hợp được sức mạnh của toàn dân ta cùng với vua quan trong việc bảo vệ và phát triển đất nước vô cùng tốt đẹp.
23/10/2010(Xem: 8586)
Nhiều thế kỷ trước, một vị vua đã lãnh đạo dân tộc Việt Nam hai lần đẩy lui quân Mông Cổ xâm lăng. Một hôm, vào năm 1293, vị vua anh hùng này đã rời ngôi vua, và vài năm sau trở thành một nhà sư và đã để lại một di sản Thiền Tông bây giờ vẫn còn phát triển để trở thành dòng Thiền lớn nhất tại Việt Nam. Ngài tên là Trần Nhân Tông, vị vua thứ ba của Nhà Trần và là vị sáng lập Dòng Thiền Trúc Lâm.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567