Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tiểu Sử Sư Bà Thích Nữ Diệu Tâm, Viện Chủ Khai Sơn Chùa Bảo Quang, Hamburg, Đức Quốc

16/06/202105:11(Xem: 4690)
Tiểu Sử Sư Bà Thích Nữ Diệu Tâm, Viện Chủ Khai Sơn Chùa Bảo Quang, Hamburg, Đức Quốc


su ba dieu tam 10
TIỂU SỬ
SƯ BÀ THÍCH NỮ DIỆU TÂM

Viện Chủ Khai Sơn Chùa Bảo Quang, Hamburg, Đức Quốc

Bài viết của SC Tuệ Đàm Nghiêm, CS Văn Công Trâm,
CS Nguyên Đạo do CS Diệu Danh diễn đọc



Nam Mô Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật

Nam Mô Từ Lâm Tế Chánh Tông, Tứ Thập Tứ Thế, Khai Sơn Đức Quốc Bảo Quang Ni Tự,
Húy Thượng NGUYÊN Hạ TỪ, Tự DIỆU TÂM Hoà Thượng Ni Giác Linh Thuỳ Từ Chứng Giám.

 

Thân thế

Sư Bà Diệu Tâm thế danh là Văn Thị Mai, pháp danh Nguyên Từ, sinh năm Kỷ Mão (tức 1939) tại xã Xuyên Mỹ, quận Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam Việt Nam. Sư Bà là người con thứ hai trong gia đình có bốn chị em, thân phụ là cụ ông Văn Công Thiều pháp danh Thị Liễu và thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Liễu pháp danh Thị Châu.

Đấng thân sinh của Sư Bà tuy theo tân học nhưng một mực thâm tín Phật Pháp. Ngay từ thuở nhỏ Sư Bà vẫn thường theo cha mẹ đi chùa tụng kinh lễ Phật. Và từ đó hạt giống bồ đề đã nảy nở trong mảnh đất tâm của Sư Bà. Đến năm 15 tuổi Sư Bà phát khởi tâm xuất gia. Thân mẫu của Sư Bà thấy các chùa viện với đời sống khổ cực, cho nên không nở để con chịu cực khổ khi còn quá non dại. Nhưng vì thấy tinh thần ý chí xuất gia mãnh liệt của Sư Bà, cho nên song thân phải đưa Sư Bà đến Chùa Bảo Thắng ở Hội An, với ý định là tìm hiểu hoàn cảnh sống của nhà chùa như thế nào? Nhưng nói chung mọi ngôi chùa ở miền trung Việt Nam vào thập niên 50 của thế kỷ 20 cũng đều chung một hoàn cảnh cơ cực như nhau. Với tâm mong cầu xuất trần quyết liệt, Sư Bà đã khiến cho song thân chìu lòng theo ý. Sau đó Sư Bà đã được Ni Trưởng Thích Nữ Đàm Minh (đệ tử xuất gia của Đức Đệ Nhất Tăng Thống Thích Tịnh Khiết, Tổ Đình Tường Vân, Huế) trụ trì chùa Bảo Thắng từ bi làm lễ thế phát xuất gia, đặt pháp danh là Nguyên Từ. Ngày 19.06.1959 (Kỷ Hợi) Bổn Sư cho Sư Bà thọ Sa Di Ni và hai năm sau đó, ngày 17.11.1961 (Tân Sửu) thọ Thức Xoa Ma Na Ni. Đến năm 1965, nhận thấy đạo hạnh đã đầy đủ, Bổn Sư cho Sư Bà thọ Tỳ Kheo Ni, Bồ Tát Giới tại Đại Giới Đàn Vạn Hạnh tổ chức ở Tổ đình Từ Hiếu, Huế (17.-18.07.1965 Ất Tỵ) do cố Đại Lão Hòa Thượng thượng Giác hạ Nhiên, đệ nhị Tăng Thống GHPGVNTN làm đàn đầu.

  

 

Tu học

Ngoài việc tu học với Bổn sư và chư Tôn Đức Ni thân cận khác như quý Ni trưởng Diệu Không, Ni trưởng Cát Tường, Ni trưởng Diệu Trí v.v… Sư Bà còn được sư phụ gởi đi học các chương trình Trung Cấp Phật Học tại Phật Học Ni Viện Nha Trang và học Chuyên môn Xã Hội theo Chương Trình An Sinh Xã Hội của Viện Đại Học Vạn Hạnh. 

Khi quê hương Việt Nam rẽ sang bước ngoặc mới sau mùa Xuân 1975 hàng triệu đồng bào Việt Nam đã có mặt khắp thế giới, tìm cầu không khí tự do nơi xứ người bốn châu. Kể từ đó, những bậc Sứ Giả Như Lai từ Việt Nam đã hòa cùng dân tộc trên xứ người với sứ mạng hoằng hoá lợi sanh. Tại Tây Đức Hoà Thượng Thích Như Điển (lúc bấy giờ là Đại Đức) đang hành đạo. Trong tình quê hương xứ Quảng, Hoà Thượng mong muốn thỉnh Sư Bà sang Đức giúp Phật sự, nhưng nhiều lần Sư Bà từ chối, vì muốn ở tại quê hương phụng hầu Thầy Tổ và Phật sự tu tập, nhất là thời gian này sư phụ đã già yếu. Nhưng Ni Trưởng Bổn Sư của Sư Bà đã nhiều lần chỉ dạy nên Sư Bà đã y giáo phụng hành rời khỏi quê hương đất tổ sang xứ Tây Đức vào mùa hè năm 1984. Từ đó đến nay xứ Đức đối với Sư Bà là quê hương thứ hai với nhiều tình nghĩa bên cạnh quê hương Việt Nam.

 

Hoạt động xã hội

Sư Bà từng đảm nhận các nhiệm vụ: Giám đốc Cô Nhi Viện Diệu Định Đà Nẵng, điều  hành các Ký Nhi Viện Bảo Quang, Ký Nhi Viện Thanh Khê Đà Nẵng và trực tiếp trách nhiệm trường mẫu giáo chùa Bảo Thắng Hội An. Tại hải ngoại Sư Bà tiếp tục nhiều năm làm Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Xã Hội GHPGVNTN Âu châu, sáng lập và điều hành Chương trình Học bổng cho Tăng Ni du học sinh tại Ấn Độ, Đài Loan và một vài trường hợp tại Hoa Kỳ. Sư Bà vẫn thường trực tiếp lãnh đạo các công tác từ thiện hay hỗ trợ các chương trình xã hội như xây cầu, phát cháo cho người bệnh… hay cứu trợ thiên tai tại Việt Nam và các nơi trên toàn thế giới.

 

Kiến lập đạo tràng

Ngay từ khi mới xuất gia, vì là người đệ tử đầu nên Sư Bà đã luôn hết mình phụ giúp Sư Phụ kiến lập các ngôi già lam Bảo Thắng Ni Tự ở phố cổ Hội An và Bảo Quang Ni Tự ở thành phố Đà Nẵng. Nối tiếp công hạnh ấy của Sư phụ, ngay sau khi đến Đức Quốc vào mùa hè năm 1984, Sư Bà đã kiến lập ngôi Chùa Ni mang tên Bảo Quang tại thành phố cảng Hamburg. Sư Bà đã cố gắng vượt qua bao nhiêu chướng ngại ban đầu để xây dựng đạo tràng và ni chúng trên mảnh đất lạ xứ người này, nơi mà trước kia Sư Bà thường nói đùa là khó khăn như kẻ đi gieo hạt bồ đề trên nền xi măng.

Bên cạnh việc giáo dục đồ chúng, giảng dạy Phật pháp cho Phật Tử, Sư Bà cũng đã rất quan tâm và giúp đỡ đàn hậu học. Sư Bà đã cố vấn sáng lập và trực tiếp hướng dẫn tinh thần nhiều cơ sở đào tạo Ni chúng khắp nơi. Đó là các ngôi già lam Bảo Vân và Hoa Đàm tại Việt Nam, Linh Thứu ở thủ đô Berlin, Bảo Thành ở Koblenz, Bảo Đức ở Oberhausen tại Đức quốc và Bảo Liên ở Odense tại Đan Mạch. Ngoài ra, Sư Bà vẫn luôn hỗ trợ các chương trình xây dựng hoặc trùng tu các ngôi tổ đình, tự viện tại Việt Nam, thường cúng dường các chùa và Phật Học Viện trên toàn thế giới.

 

Hành Hương Chiêm Bái

Để gieo trồng niềm tin vững chắc với Phật pháp cho hàng Phật Tử, Sư Bà thường tổ chức các cuộc hành hương sang chiêm bái Phật tích, Thánh tích tại Ấn Độ, Tích Lan, Thái Lan, thăm Tứ đại Thánh tích Danh sơn ở Trung Hoa cũng như các danh lam cổ tự trên toàn thế giới. Sư Bà cũng thường lui tới các Tự viện trên các châu lục để thăm viếng và lễ bái, thăm hỏi, vấn an chư Tôn Đức Tăng Ni đồng đạo.

 

Quan hệ xã hội

Sư Bà luôn chú trọng quan hệ và giúp đỡ các tổ chức Phật Giáo bạn tại tỉnh nhà Hamburg, như các Hội Phật Tử người Đức, Tây Tạng, Tích Lan… Sư Bà cũng quan hệ với những tổ chức văn hóa giáo dục khác tại địa phương như Viện Đại Học, Viện Bảo Tàng thành phố Hamburg hay các tổ chức tôn giáo bạn tại địa phương như Tin Lành, Thiên Chúa Giáo… Qua nếp sống giản dị khiêm tốn, tinh cần tu học, tịnh giới trang nghiêm, Sư Bà thường được chư Tôn Thạc Đức Tăng Ni trên toàn thế giới quý mến. Khi có dịp đến Đức quốc các Ngài thường ghé Hamburg viếng thăm Chùa Bảo Quang, mặc dù có khi Chùa còn trong giai đoạn rất chật hẹp. Pháp tòa Chùa Bảo Quang Hamburg từng được vinh dự đón tiếp các Cao Tăng Thạc Đức như Hòa Thượng (H.T.) Thích Tâm Châu (Canada); H.T. Thích Mãn Giác, H.T. Thích Tịnh Từ,  H.T. Thích Tín Nghĩa, H.T. Thích Nguyên Siêu (Hoa Kỳ); Thiền Sư Thích Nhất Hạnh, H.T. Thích Minh Tâm, H.T. Thích Tánh Thiệt (Pháp); H.T. Thích Như Huệ, H.T. Thích Bảo Lạc (Úc); H.T. Thích Minh Tuyền (Nhật Bản); H.T. Thích Như Điển (Đức)… và còn rất nhiều bậc tôn túc khác. Những giảng sư nổi tiếng ngoại quốc như Thiền Sư Ajahn Brahm cũng đã từng đến thuyết giảng tại đây. Những Tăng Ni trẻ khắp nơi cũng rất thường xuyên thăm viếng Sư Bà, có khi để bàn bạc, trao đổi một vài ý kiến hay một lời khuyên trong thâm tình đạo vị. Đối với các Phật Tử tại gia, Sư Bà thường quan tâm thăm hỏi sức khỏe người lớn tuổi, theo dõi những sinh hoạt của người trẻ, khuyên răn sống sao cho hợp đạo lý. Cũng có khi Sư Bà đi xa cả hằng mấy trăm cây số đến tận nơi khuyên nhủ góp ý cho một gia đình có những mâu thuẫn. Đến đâu Sư Bà cũng được hàng Phật Tử kính trọng và thương mến.

 

Những ngày cuối cùng

Dù thân mang nhiều bệnh duyên nhưng lúc nào Sư Bà vẫn luôn tươi cười hoan hỷ mỗi khi gặp các Phật tử trong ngoài gần xa, và thường xuyên thăm hỏi các đạo tràng, cũng như hướng dẫn hàng đệ tử và đồ chúng huân tu, sách tấn tu tập.

Tâm nguyện của Sư Bà là nhất tâm trì chí với sứ mạng "tác Như Lai sứ, hành Như Lai sự" mà không mong người đời nhắc đến. Những năm tháng cuối đời Sư Bà thường giáo huấn nhắc nhở hàng đệ tử xuất gia và tại gia hãy Tinh Tấn Tu Hành, Nghiêm minh Giới Luật, Vui sống Lục Hòa, Từ bi với mọi loài chúng sanh.

Thuận thế vô thường, vào lúc 18 giờ 59 phút chiều thứ bảy, ngày 12 tháng sáu năm 2021 (nhằm mùng 3 tháng 5 âm lịch Tân Sửu), Sư Bà đã xã báo thân tứ đại tại phương trượng của chùa Bảo Quang – Hamburg – Đức quốc, về với chư Phật chư Tổ để lại bao nhiêu nỗi tiếc thương cho Tăng Ni, Phật Tử.

 

NAM MÔ TỪ LÂM TẾ CHÁNH TÔNG, TỨ THẬP TỨ THẾ, KHAI SƠN ĐỨC QUỐC BẢO QUANG NI TỰ, HÚY THƯỢNG NGUYÊN HẠ TỪ, TỰ DIỆU TÂM HÒA THƯỢNG NI GIÁC LINH THÙY TỪ CHỨNG GIÁM.






Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/11/2010(Xem: 6599)
Hoà Thượng thế danh Diệp Quang Tiền, pháp danh Tâm Khai, tự Thiện Giác, hiệu Trí Ấn Nhật Liên. Ngài sanh ngày 13 tháng 10 năm Quý Hợi (1923) tại thôn Xuân Yên, xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân phụ là cụ Diệp Chí Hoan; thân mẫu là cụ bà Phan Thị Đường. Hai cụ sinh hạ được 5 người con : 4 nam, 1 nữ - Ngài là con thứ trong gia đình, sau anh trưởng là Thầy Diệp Tôn (Thích Thiện Liên). Năm lên 6 tuổi (1928) gia đình Ngài dời về thôn Diên Sanh, xã Hải Thọ, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Thân sinh Ngài đã rước thầy Đồ Nho danh tiếng về nhà để dạy chữ Hán cho hai con. Hai anh em Ngài thường được cụ Đồ khen là thông minh, hứa hẹn một tương lai tốt đẹp. Năm lên 10 tuổi (1932), Ngài theo học Việt Văn tại thôn Diên Sanh.
02/11/2010(Xem: 6902)
Thành kính khẩn bạch đến chư Tôn Đức Tăng Già của quý Giáo Hội, quý Tự Viện, quý tổ chức Phật Giáo cùng toàn thể chư vị thiện nam tín nữ Phật tử: Đại Lão Hòa Thượng thượng Huyền, hạ Ấn, thế danh Hoàng Không Uẩn, sinh năm 1928 tại Quảng Bình, Việt Nam
01/11/2010(Xem: 816)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
01/11/2010(Xem: 33768)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
29/10/2010(Xem: 4695)
Kể từ khi vết tích của chùa Thiên Mụ được ghi lại đơn sơ trong sách Ô Châu Cận Lục vào năm 1553 (1), chùa đã tồn tại gần 450 năm cho đến ngày nay. Trải qua bao nhiêu cuộc bể dâu, chùa vẫn giữ được địa vị và vẫn đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống đạo và đời của dân Huế, nói riêng, và của dân cả nước, nói chung. Qua đầu thế kỷ 17, chùa đã thực sự đi vào lịch sử sau khi Nguyễn Hoàng vào xứ đàng trong để gây dựng cơ nghiệp đế vương với huyền thoại “bà tiên mặc áo đỏ” (9).
23/10/2010(Xem: 4652)
Trong Cây Có Hoa Trong Đá Có Lửa Kính Dâng Hòa Thượng Thích Như Điển nhân dịp mừng thọ 70 tuổi của Ngài và kỷ niệm 40 năm khai sơn Chùa Viên Giác tại Đức Quốc Tỳ Kheo Thích Nguyên Tạng “Trong Cây Có Hoa, Trong Đá Có Lửa” là lời pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên do Hòa Thượng Thích Như Điển nhắc lại trong thời giảng Pháp của Ngài mà tôi đã nghe được khi theo hầu Ngài trong chuyến đi Hoằng Pháp tại Hoa Kỳ năm 2006. Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen) là người Nhật, Ngài sinh năm 1200 và tịch năm 1253, thọ 53 tuổi. Ngài là Sáng Tổ của của Soto-Zen (Thiền Tào Động) của Nhật Bản, và là tác giả bộ sách nổi tiếng “Chánh Pháp Nhãn Tạng” “Ki no naka ni, hana ga aru (Trong cây có hoa), Ishi no naka ni, hi ga aru (Trong đá có lửa)” Đó là pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen), được Hòa Thượng Như Điển dịch sang lời Việt. Lời thơ quá tuyệt vời, tuy ngắn gọn nhưng dung chứa cả một kho tàng giáo lý về Nhân Duyên Quả của Đạo Phật.
23/10/2010(Xem: 4616)
Trong mười thế kỷ phong kiến Việt Nam, Trần Nhân Tông là một trong những ông vua giỏi và tài hoa bậc nhất. Lịch sử đã xem ông là “vị vua hiền” đời Trần, có công lớn trong sự nghiệp trùng hưng đất nước. Văn học sẽ nhớ mãi ông bởi những vần thơ thanh nhã, sâu sắc và không kém hào hùng.
23/10/2010(Xem: 4572)
Về sự nghiệp của vua Trần Nhân Tông, đã có rất nhiều tài liệu và bài viết về hai lần lãnh đạo quân dân nước ta đánh thắng giặc Mông - Nguyên, trị quốc an dân, đối ngoại và mở cõi, nên ở đây chúng tôi không lặp lại nữa, mà chỉ đề cập đôi nét đến nội dung khác về: Trần Nhân Tông - một hoàng đế xuất gia, một thiền sư đắc đạo và là sơ tổ lập nên dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử độc đáo của Việt Nam.
23/10/2010(Xem: 4888)
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa. Bác sĩ Nguyễn Văn Khỏe, một cây cột trụ của hội Lưỡng Xuyên Phật Học cũ đảm nhận trách vụ hội trưởng. Ông Mai Thọ Truyền giữ trách vụ tổng thư ký. Các thiền sư Quảng Minh và Nhật Liên đã triệt để ủng hộ cho việc tổ chức hội Phật Học Nam Việt. Thiền sư Quảng Minh được bầu làm hội trưởng của hội bắt đầu từ năm 1952. Năm 1955, sau khi thiền sư Quảng Minh đi Nhật du học, ông Mai Thọ Truyền giữ chức vụ hội trưởng. Chức vụ này ông giữ cho đến năm 1973, khi ông mất. Hội Phật Học Nam Việt được thành lập do nghị định của Thủ Hiến Nam Việt ký ngày 19.9.1950. Bản tuyên cáo của hội có nói đến nguyện vọng thống nhất các đoàn thể Phật giáo trong nước. Bản tuyên cáo viết: "Đề xướng việc lập hội Phật học này. Chúng tôi còn có cái thâm ý đi đến chỗ Bắc Trung Nam sẽ bắt tay trên nguyên tắc cũng như trong hành động. Sự
23/10/2010(Xem: 4618)
Cư sĩ Mai Thọ Truyền sinh ngày 01-4-1905 tại làng Long Mỹ, tỉnh Bến Tre trong một gia đình trung lưu. Thuở nhỏ ông được theo học tại trường Sơ học Pháp - Việt Bến Tre, rồi Trung học Mỹ Tho, và Chasseloup Laubat Saigon. Năm 1924, ông thi đậu Thư ký Hành chánh và được bổ đi làm việc tại Sài Gòn, Hà Tiên, Chợ Lớn. Năm 1931, ông thi đậu Tri huyện và đã tùng sự tại Sài Gòn, Trà Vinh, Long Xuyên và Sa Đéc. Hành nhiệm ở đâu cũng tỏ ra liêm khiết, chính trực và đức độ, không xu nịnh cấp trên, hà hiếp dân chúng, nên được quý mến.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567