Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tiểu sử Trưởng lão Hòa thượng Thích Thiện Huệ (1941-2020)

19/08/202019:13(Xem: 5428)
Tiểu sử Trưởng lão Hòa thượng Thích Thiện Huệ (1941-2020)

Chan Dung HT Thich Thien Hue-2

Tiểu sử

Trưởng lão Hòa thượng Thích Thiện Huệ

(1941-2020)

 

Trưởng lão Hòa thượng thuộc dòng Thiền Lâm Tế Chánh tông đời thứ 41, pháp húy Nhật Thành, hiệu Thiện Huệ, thế danh Huỳnh Văn Tấn, sinh năm 1941 (Tân Tỵ), tại làng Tân Nhuận Đông, quận Châu Thành, tỉnh Sa Đéc (nay thuộc tỉnh Đồng Tháp).

 

Thân phụ của Ngài là cụ ông Huỳnh Văn Cho, pháp danh Thiện Chơn (1913-1996), và Hiền mẫu của Ngài là cụ bà Nguyễn Thị Liễn, pháp danh Diệu Hạnh (1914-1994). Vốn sinh trưởng trong gia đình nông dân thuần phác, nhiều đời kính tin Tam Bảo, Ngài có 03 anh chị em, hai gái, Ngài là anh cả.

 

Thiện căn sâu dầy, đất Bồ đề vun đắp, cây Bát nhã nở hoa. Thật là “Đàm hoa nhất hiện” khi những sợi tóc não phiền rơi rụng theo từng nhát kéo đong đưa, thì ước nguyện tròn đầy, năm 13 tuổi, Ngài đến Tổ đình Phước Hưng Cổ tự đảnh lễ Trưởng lão Hòa thượng Thích Vĩnh Tràng, đệ tứ Trụ trì, cầu xin thế phát xuất gia, được Hòa thượng Bổn sư cạo tóc và ban hiệu Thiện Huệ, và sau đó, Ngài thọ giới Sa Di tại Tổ đình Kim Huê Cổ Tự, Sa Đéc.

 

Mùa Đông năm Nhâm Dần (1962), do vì Trưởng lão Hòa thượng Thích Vĩnh Tràng (1881-1963) tuổi cao sức yếu, nên Giáo Hội Tăng già Nam Việt bổ nhiệm Trưởng lão Hòa thượng Thích Vĩnh Đạt đương nhiệm Trụ trì Sắc tứ Tam Bảo Tự, Hà Tiên về kế nhiệm đệ ngũ Trụ trì Tổ đình Phước Hưng Cổ tự. Từ đây Ngài trở thành đệ tử Y chỉ của Hòa thượng Thích Vĩnh Đạt (1911-1987) và được Hòa thượng Y chỉ sư cho đăng đàn thọ Cụ túc giới tại Đàn giới Việt Nam Quốc Tự, Sài Gòn (nay là Tp. Hồ Chí Minh).

 

Sau khi thọ giới, Ngài phát nguyện chuyên trì tụng Kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa, nhất tâm niệm Phật, chuyên trì giới luật tinh nghiêm, thường đi tu học các nơi và khóa an cư kiết hạ.

 

Năm 1975 (Ất Mão) xét thấy ngôn hạnh tương ưng trong tu hành, Ngài được Trưởng lão Hòa thượng Y chỉ sư Thích Vĩnh Đạt, nguyên Trưởng ban Trị sự GHPGVN tỉnh Đồng Tháp (19811987) ban pháp danh Nhật Thành hiệu Thiện Huệ và truyền đăng phú pháp kệ rằng:

 

日出光明照大千

成能修證戒為先

善通頓漸弘宣教

慧福心燈道繼傳

 

Nhật xuất quang minh chiếu đại thiên,

Thành năng tu chứng giới vi tiên,

Thiện thông đốn tiệm hoằng tuyên giáo;

Huệ phúc tâm đăng đạo kế truyền.

 

Vầng dương chiếu sáng khắp càn khôn,

Muốn tu chứng đặng giữ giới môn,

Đốn tiệm khéo thông hoằng giáo pháp;

Huệ phúc đèn tâm đạo vĩnh tồn.

(Thích Nguyên Hiền dịch)

 

Năm 1987 (Đinh Mão), Ngài được Trưởng lão Hòa thượng Bổn sư Thích Vĩnh Đạt và Ban Trị sự GHPGVN tỉnh Đồng Tháp quyết định trao quyền kế nhiệm đệ lục Trụ trì Tổ đình Phước Hưng Cổ tự cho đến khi viên tịch.

 

Là bậc thầy mô phạm chốn thiền môn, giới đức tinh nghiêm, ngôn hành hợp nhất, Ngài đã từng ban thí giới cho các Đại giới đàn với các ngôi vị Tôn chứng A Xà lê, Giáo thọ A Xà lê, Yết Ma A Xà lê và Đàn Đầu Hòa thượng.

 

Năm 1987, Ngài được suy cử Phó Ban Đại diện Phật giáo Thị xã Sa Đéc nhiệm kỳ II (1986-1992) và các nhiệm kỳ sau đó, Ngài luôn giữ trọng trách Ủy viên Ban Trị sự Tỉnh hội Phật giáo tỉnh Đồng Tháp.

 

Năm 1989, Phật giáo tỉnh Đồng Tháp đã ổn định theo phương hướng chỉ đạo của Hội đồng Trị sự Trung ương GHPGVN, Ngài hợp tác cùng Ban Trị sự GHPGVN tỉnh Đồng Tháp thành lập Trường Cơ bản Phật học, Văn phòng đặt tại Tổ đình Phước Hưng các khóa I và II.

 

Tháng 11 năm 1992, Đại hội đại biểu Phật giáo toàn quốc kỳ III (1992-2007) đã suy tôn lên hàng giáo phẩm Thượng Tọa.

 

Năm 2007, Ngài được bầu giữ chức vụ Phó ban Thường trực Ban trị sự Phật giáo tỉnh Đồng Tháp. Tại Đại hội Phật giáo Toàn quốc nhiệm kỳ VI (2007 – 2012, Ngài được suy cử vào Ủy viên Hội đồng Trị sự Trung ương GHPGV và được suy tôn lên hàng giáo phẩm Hòa Thượng trong giáo hội.

 

Những thập niên năm 2009 – 2017, Ngài tiếp tục chức vụ Ủy viên HĐTS TW GHPGVN và được suy cử Trưởng Ban trị sự GHPGVN tỉnh Đồng Tháp; Hiệu trưởng trường Trung cấp Phật học Đồng Tháp. Tham gia chức vụ Ủy viên UB. MTTQVN tỉnh Đồng Tháp.

 

 Năm 2017, tại Đại hội Đại biểu Phật giáo toàn quốc nhiệm kỳ VIII (2017-2022) được Hội đồng trị sự Giáo hội suy tôn ngôi vị Thành Viên HĐCM TW GHPGVN, Chứng minh Ban trị sự GHPGVN tỉnh Đồng Tháp.

 

 Năm 2012, tại Đại hội Đại biểu Phật giáo toàn quốc nhiệm kỳ VII (2012-2017), Ngài nhận được Huân chương Đại đoàn kết toàn Dân tộc cao quý do chủ tịch nước Trương Tấn Sang tặng và nhiều bằng công đức cao quý của Trung ương Giáo hội, nhiều giấy khen của Ủy Ban nhân dân tỉnh Đồng Tháp và các cấp trao tặng.

 

Noi gương các bậc cao tăng tiền nhiệm trụ trì, Ngài sống thanh bần lạc đạo, thiểu dục tri túc. Từ khi đảm nhận chức Phương trượng trụ trì Tổ đình Phước Hưng cho đến khi viên tịch, Ngài luôn thể hiện “Tri hành hợp nhất” để sách tấn chư tăng bản tự và Tăng sinh các khóa Trung cấp Phật học Đồng Tháp tập sống theo phương châm: “Nội cần khắc niệm chi công, Ngoại hoằng bất tranh chi đức” (内勤克念之功. 外弘不諍之德). Ngài luôn dành tất cả tiền bạc, tài sản của đàn việt tín cúng, đều tập trung vào việc đầu tư giáo dục đào tăng tăng tài và trùng tu ngôi già lam cổ tự ngày thêm tươi đẹp.

 

Sinh thời, Ngài vốn là vị danh tăng nổi tiếng chuyên trì tụng Kinh Đại thừa Diệu pháp Liên Hoa, trì giới hạnh, hiếu thảo song thân. Ngài là một trong những tấm gương sáng soi cho hậu thế về Hiếu đạo; Ngài tự mình chăm sóc, phụng dưỡng cho cha mẹ những năm tháng cuối đời tại Bản tự Phước Hưng, quy hướng Tam bảo, sớm hôm tụng kinh niệm Phật.

 

Liễu tri sinh tử sự thường, thân tứ đại đến hồi suy yếu, thấu rõ việc đến đi không vướng bận, Ngài thản nhiên cảm tác thảo vài nét rằng:

 

雲去雲來天本淨

花開花落樹何干

 

Vân khứ vân lai thiên bản tịnh,

Hoa khai hoa lạc thụ hà can?

 

Mây đến mây đi, trời vẫn trong xanh nào vướng mắc;

Hoa khai hoa rụng, cây còn đứng lặng có can chi!

(Thích Nguyên Hiền dịch)

 

Kệ phú pháp truyền đăngDi bút của HT Thích Thiện Huệ

Ngài thanh thản trút hơi thở cuối cùng, an nhiên thị tịch vào lúc 6 giờ 30 phút, ngày 17 tháng 8 năm 2020 (28/6/Canh Tý) tại Hương thất, Tổ đình Phước Hưng Cổ tự, Phường 1, Thành phố Sa Đéc, Tỉnh Đồng Tháp. Trụ thế 80 Xuân, Giới lạp 58 Hạ, Trụ trì 33 Đông.

 

Nam Mô Phước Hưng đường Thượng Từ lâm Tế chánh tôn Tứ thập nhất thế húy Nhật Thành thượng Thiện hạ Huệ Huỳnh công Hòa thượng giác linh.

                                   

Pháp đệ Thích Vân Phong và Môn đồ Pháp quyến kính biên soạn



 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
02/11/2010(Xem: 8090)
Thành kính khẩn bạch đến chư Tôn Đức Tăng Già của quý Giáo Hội, quý Tự Viện, quý tổ chức Phật Giáo cùng toàn thể chư vị thiện nam tín nữ Phật tử: Đại Lão Hòa Thượng thượng Huyền, hạ Ấn, thế danh Hoàng Không Uẩn, sinh năm 1928 tại Quảng Bình, Việt Nam
01/11/2010(Xem: 4899)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
01/11/2010(Xem: 37244)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
29/10/2010(Xem: 6146)
Kể từ khi vết tích của chùa Thiên Mụ được ghi lại đơn sơ trong sách Ô Châu Cận Lục vào năm 1553 (1), chùa đã tồn tại gần 450 năm cho đến ngày nay. Trải qua bao nhiêu cuộc bể dâu, chùa vẫn giữ được địa vị và vẫn đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống đạo và đời của dân Huế, nói riêng, và của dân cả nước, nói chung. Qua đầu thế kỷ 17, chùa đã thực sự đi vào lịch sử sau khi Nguyễn Hoàng vào xứ đàng trong để gây dựng cơ nghiệp đế vương với huyền thoại “bà tiên mặc áo đỏ” (9).
23/10/2010(Xem: 6111)
Trong Cây Có Hoa Trong Đá Có Lửa Kính Dâng Hòa Thượng Thích Như Điển nhân dịp mừng thọ 70 tuổi của Ngài và kỷ niệm 40 năm khai sơn Chùa Viên Giác tại Đức Quốc Tỳ Kheo Thích Nguyên Tạng “Trong Cây Có Hoa, Trong Đá Có Lửa” là lời pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên do Hòa Thượng Thích Như Điển nhắc lại trong thời giảng Pháp của Ngài mà tôi đã nghe được khi theo hầu Ngài trong chuyến đi Hoằng Pháp tại Hoa Kỳ năm 2006. Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen) là người Nhật, Ngài sinh năm 1200 và tịch năm 1253, thọ 53 tuổi. Ngài là Sáng Tổ của của Soto-Zen (Thiền Tào Động) của Nhật Bản, và là tác giả bộ sách nổi tiếng “Chánh Pháp Nhãn Tạng” “Ki no naka ni, hana ga aru (Trong cây có hoa), Ishi no naka ni, hi ga aru (Trong đá có lửa)” Đó là pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen), được Hòa Thượng Như Điển dịch sang lời Việt. Lời thơ quá tuyệt vời, tuy ngắn gọn nhưng dung chứa cả một kho tàng giáo lý về Nhân Duyên Quả của Đạo Phật.
23/10/2010(Xem: 5753)
Trong mười thế kỷ phong kiến Việt Nam, Trần Nhân Tông là một trong những ông vua giỏi và tài hoa bậc nhất. Lịch sử đã xem ông là “vị vua hiền” đời Trần, có công lớn trong sự nghiệp trùng hưng đất nước. Văn học sẽ nhớ mãi ông bởi những vần thơ thanh nhã, sâu sắc và không kém hào hùng.
23/10/2010(Xem: 5644)
Về sự nghiệp của vua Trần Nhân Tông, đã có rất nhiều tài liệu và bài viết về hai lần lãnh đạo quân dân nước ta đánh thắng giặc Mông - Nguyên, trị quốc an dân, đối ngoại và mở cõi, nên ở đây chúng tôi không lặp lại nữa, mà chỉ đề cập đôi nét đến nội dung khác về: Trần Nhân Tông - một hoàng đế xuất gia, một thiền sư đắc đạo và là sơ tổ lập nên dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử độc đáo của Việt Nam.
23/10/2010(Xem: 5923)
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa. Bác sĩ Nguyễn Văn Khỏe, một cây cột trụ của hội Lưỡng Xuyên Phật Học cũ đảm nhận trách vụ hội trưởng. Ông Mai Thọ Truyền giữ trách vụ tổng thư ký. Các thiền sư Quảng Minh và Nhật Liên đã triệt để ủng hộ cho việc tổ chức hội Phật Học Nam Việt. Thiền sư Quảng Minh được bầu làm hội trưởng của hội bắt đầu từ năm 1952. Năm 1955, sau khi thiền sư Quảng Minh đi Nhật du học, ông Mai Thọ Truyền giữ chức vụ hội trưởng. Chức vụ này ông giữ cho đến năm 1973, khi ông mất. Hội Phật Học Nam Việt được thành lập do nghị định của Thủ Hiến Nam Việt ký ngày 19.9.1950. Bản tuyên cáo của hội có nói đến nguyện vọng thống nhất các đoàn thể Phật giáo trong nước. Bản tuyên cáo viết: "Đề xướng việc lập hội Phật học này. Chúng tôi còn có cái thâm ý đi đến chỗ Bắc Trung Nam sẽ bắt tay trên nguyên tắc cũng như trong hành động. Sự
23/10/2010(Xem: 5459)
Cư sĩ Mai Thọ Truyền sinh ngày 01-4-1905 tại làng Long Mỹ, tỉnh Bến Tre trong một gia đình trung lưu. Thuở nhỏ ông được theo học tại trường Sơ học Pháp - Việt Bến Tre, rồi Trung học Mỹ Tho, và Chasseloup Laubat Saigon. Năm 1924, ông thi đậu Thư ký Hành chánh và được bổ đi làm việc tại Sài Gòn, Hà Tiên, Chợ Lớn. Năm 1931, ông thi đậu Tri huyện và đã tùng sự tại Sài Gòn, Trà Vinh, Long Xuyên và Sa Đéc. Hành nhiệm ở đâu cũng tỏ ra liêm khiết, chính trực và đức độ, không xu nịnh cấp trên, hà hiếp dân chúng, nên được quý mến.
23/10/2010(Xem: 8770)
Trong lịch sử dựng nước, giữ nước và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc của dân tộc Việt Nam, vương triều Trần (1226-1400) được tôn vinh là triều đại sáng chói nhất thể hiện qua những chiến công hiển hách thắng giặc ngoại xâm cũng như chính sách hộ quốc an dân đã tổng hợp được sức mạnh của toàn dân ta cùng với vua quan trong việc bảo vệ và phát triển đất nước vô cùng tốt đẹp.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]