Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tiểu sử Trưởng lão Hòa thượng Thích Thiện Huệ (1941-2020)

19/08/202019:13(Xem: 4493)
Tiểu sử Trưởng lão Hòa thượng Thích Thiện Huệ (1941-2020)

Chan Dung HT Thich Thien Hue-2

Tiểu sử

Trưởng lão Hòa thượng Thích Thiện Huệ

(1941-2020)

 

Trưởng lão Hòa thượng thuộc dòng Thiền Lâm Tế Chánh tông đời thứ 41, pháp húy Nhật Thành, hiệu Thiện Huệ, thế danh Huỳnh Văn Tấn, sinh năm 1941 (Tân Tỵ), tại làng Tân Nhuận Đông, quận Châu Thành, tỉnh Sa Đéc (nay thuộc tỉnh Đồng Tháp).

 

Thân phụ của Ngài là cụ ông Huỳnh Văn Cho, pháp danh Thiện Chơn (1913-1996), và Hiền mẫu của Ngài là cụ bà Nguyễn Thị Liễn, pháp danh Diệu Hạnh (1914-1994). Vốn sinh trưởng trong gia đình nông dân thuần phác, nhiều đời kính tin Tam Bảo, Ngài có 03 anh chị em, hai gái, Ngài là anh cả.

 

Thiện căn sâu dầy, đất Bồ đề vun đắp, cây Bát nhã nở hoa. Thật là “Đàm hoa nhất hiện” khi những sợi tóc não phiền rơi rụng theo từng nhát kéo đong đưa, thì ước nguyện tròn đầy, năm 13 tuổi, Ngài đến Tổ đình Phước Hưng Cổ tự đảnh lễ Trưởng lão Hòa thượng Thích Vĩnh Tràng, đệ tứ Trụ trì, cầu xin thế phát xuất gia, được Hòa thượng Bổn sư cạo tóc và ban hiệu Thiện Huệ, và sau đó, Ngài thọ giới Sa Di tại Tổ đình Kim Huê Cổ Tự, Sa Đéc.

 

Mùa Đông năm Nhâm Dần (1962), do vì Trưởng lão Hòa thượng Thích Vĩnh Tràng (1881-1963) tuổi cao sức yếu, nên Giáo Hội Tăng già Nam Việt bổ nhiệm Trưởng lão Hòa thượng Thích Vĩnh Đạt đương nhiệm Trụ trì Sắc tứ Tam Bảo Tự, Hà Tiên về kế nhiệm đệ ngũ Trụ trì Tổ đình Phước Hưng Cổ tự. Từ đây Ngài trở thành đệ tử Y chỉ của Hòa thượng Thích Vĩnh Đạt (1911-1987) và được Hòa thượng Y chỉ sư cho đăng đàn thọ Cụ túc giới tại Đàn giới Việt Nam Quốc Tự, Sài Gòn (nay là Tp. Hồ Chí Minh).

 

Sau khi thọ giới, Ngài phát nguyện chuyên trì tụng Kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa, nhất tâm niệm Phật, chuyên trì giới luật tinh nghiêm, thường đi tu học các nơi và khóa an cư kiết hạ.

 

Năm 1975 (Ất Mão) xét thấy ngôn hạnh tương ưng trong tu hành, Ngài được Trưởng lão Hòa thượng Y chỉ sư Thích Vĩnh Đạt, nguyên Trưởng ban Trị sự GHPGVN tỉnh Đồng Tháp (19811987) ban pháp danh Nhật Thành hiệu Thiện Huệ và truyền đăng phú pháp kệ rằng:

 

日出光明照大千

成能修證戒為先

善通頓漸弘宣教

慧福心燈道繼傳

 

Nhật xuất quang minh chiếu đại thiên,

Thành năng tu chứng giới vi tiên,

Thiện thông đốn tiệm hoằng tuyên giáo;

Huệ phúc tâm đăng đạo kế truyền.

 

Vầng dương chiếu sáng khắp càn khôn,

Muốn tu chứng đặng giữ giới môn,

Đốn tiệm khéo thông hoằng giáo pháp;

Huệ phúc đèn tâm đạo vĩnh tồn.

(Thích Nguyên Hiền dịch)

 

Năm 1987 (Đinh Mão), Ngài được Trưởng lão Hòa thượng Bổn sư Thích Vĩnh Đạt và Ban Trị sự GHPGVN tỉnh Đồng Tháp quyết định trao quyền kế nhiệm đệ lục Trụ trì Tổ đình Phước Hưng Cổ tự cho đến khi viên tịch.

 

Là bậc thầy mô phạm chốn thiền môn, giới đức tinh nghiêm, ngôn hành hợp nhất, Ngài đã từng ban thí giới cho các Đại giới đàn với các ngôi vị Tôn chứng A Xà lê, Giáo thọ A Xà lê, Yết Ma A Xà lê và Đàn Đầu Hòa thượng.

 

Năm 1987, Ngài được suy cử Phó Ban Đại diện Phật giáo Thị xã Sa Đéc nhiệm kỳ II (1986-1992) và các nhiệm kỳ sau đó, Ngài luôn giữ trọng trách Ủy viên Ban Trị sự Tỉnh hội Phật giáo tỉnh Đồng Tháp.

 

Năm 1989, Phật giáo tỉnh Đồng Tháp đã ổn định theo phương hướng chỉ đạo của Hội đồng Trị sự Trung ương GHPGVN, Ngài hợp tác cùng Ban Trị sự GHPGVN tỉnh Đồng Tháp thành lập Trường Cơ bản Phật học, Văn phòng đặt tại Tổ đình Phước Hưng các khóa I và II.

 

Tháng 11 năm 1992, Đại hội đại biểu Phật giáo toàn quốc kỳ III (1992-2007) đã suy tôn lên hàng giáo phẩm Thượng Tọa.

 

Năm 2007, Ngài được bầu giữ chức vụ Phó ban Thường trực Ban trị sự Phật giáo tỉnh Đồng Tháp. Tại Đại hội Phật giáo Toàn quốc nhiệm kỳ VI (2007 – 2012, Ngài được suy cử vào Ủy viên Hội đồng Trị sự Trung ương GHPGV và được suy tôn lên hàng giáo phẩm Hòa Thượng trong giáo hội.

 

Những thập niên năm 2009 – 2017, Ngài tiếp tục chức vụ Ủy viên HĐTS TW GHPGVN và được suy cử Trưởng Ban trị sự GHPGVN tỉnh Đồng Tháp; Hiệu trưởng trường Trung cấp Phật học Đồng Tháp. Tham gia chức vụ Ủy viên UB. MTTQVN tỉnh Đồng Tháp.

 

 Năm 2017, tại Đại hội Đại biểu Phật giáo toàn quốc nhiệm kỳ VIII (2017-2022) được Hội đồng trị sự Giáo hội suy tôn ngôi vị Thành Viên HĐCM TW GHPGVN, Chứng minh Ban trị sự GHPGVN tỉnh Đồng Tháp.

 

 Năm 2012, tại Đại hội Đại biểu Phật giáo toàn quốc nhiệm kỳ VII (2012-2017), Ngài nhận được Huân chương Đại đoàn kết toàn Dân tộc cao quý do chủ tịch nước Trương Tấn Sang tặng và nhiều bằng công đức cao quý của Trung ương Giáo hội, nhiều giấy khen của Ủy Ban nhân dân tỉnh Đồng Tháp và các cấp trao tặng.

 

Noi gương các bậc cao tăng tiền nhiệm trụ trì, Ngài sống thanh bần lạc đạo, thiểu dục tri túc. Từ khi đảm nhận chức Phương trượng trụ trì Tổ đình Phước Hưng cho đến khi viên tịch, Ngài luôn thể hiện “Tri hành hợp nhất” để sách tấn chư tăng bản tự và Tăng sinh các khóa Trung cấp Phật học Đồng Tháp tập sống theo phương châm: “Nội cần khắc niệm chi công, Ngoại hoằng bất tranh chi đức” (内勤克念之功. 外弘不諍之德). Ngài luôn dành tất cả tiền bạc, tài sản của đàn việt tín cúng, đều tập trung vào việc đầu tư giáo dục đào tăng tăng tài và trùng tu ngôi già lam cổ tự ngày thêm tươi đẹp.

 

Sinh thời, Ngài vốn là vị danh tăng nổi tiếng chuyên trì tụng Kinh Đại thừa Diệu pháp Liên Hoa, trì giới hạnh, hiếu thảo song thân. Ngài là một trong những tấm gương sáng soi cho hậu thế về Hiếu đạo; Ngài tự mình chăm sóc, phụng dưỡng cho cha mẹ những năm tháng cuối đời tại Bản tự Phước Hưng, quy hướng Tam bảo, sớm hôm tụng kinh niệm Phật.

 

Liễu tri sinh tử sự thường, thân tứ đại đến hồi suy yếu, thấu rõ việc đến đi không vướng bận, Ngài thản nhiên cảm tác thảo vài nét rằng:

 

雲去雲來天本淨

花開花落樹何干

 

Vân khứ vân lai thiên bản tịnh,

Hoa khai hoa lạc thụ hà can?

 

Mây đến mây đi, trời vẫn trong xanh nào vướng mắc;

Hoa khai hoa rụng, cây còn đứng lặng có can chi!

(Thích Nguyên Hiền dịch)

 

Kệ phú pháp truyền đăngDi bút của HT Thích Thiện Huệ

Ngài thanh thản trút hơi thở cuối cùng, an nhiên thị tịch vào lúc 6 giờ 30 phút, ngày 17 tháng 8 năm 2020 (28/6/Canh Tý) tại Hương thất, Tổ đình Phước Hưng Cổ tự, Phường 1, Thành phố Sa Đéc, Tỉnh Đồng Tháp. Trụ thế 80 Xuân, Giới lạp 58 Hạ, Trụ trì 33 Đông.

 

Nam Mô Phước Hưng đường Thượng Từ lâm Tế chánh tôn Tứ thập nhất thế húy Nhật Thành thượng Thiện hạ Huệ Huỳnh công Hòa thượng giác linh.

                                   

Pháp đệ Thích Vân Phong và Môn đồ Pháp quyến kính biên soạn



 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/04/2013(Xem: 28629)
Hòa thượng pháp danh Thiền Tâm, pháp hiệu Liên Du, tự Vô Nhất thuộc dòng Lâm Tế Chánh Tông đời thứ 43, thế danh Nguyễn Nhựt Thăng, sinh năm 1925 (Ất Sửu) tại xã Bình Xuân, Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang. Song thân là cụ Nguyễn Văn Hương và cụ Trần Thị Dung pháp danh Giác Ân. Ngài là người thứ 10 trong số 13 anh em, 4 trai, 9 gái.
09/04/2013(Xem: 7330)
Hòa Thượng Thích Thanh Kiểm, thế danh Vũ Văn Khang, sinh ngày 23/12/1921 (Tân Dậu), tại làng Tiêu Bảng, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định. Thân phụ là Cụ Ông Vũ Đức Khanh, thân mẫu là Cụ Bà Đỗ Thị Thinh. Hoà thượng có 5 anh chị em, 3 trai 2 gái. Ngài là con thứ 4 trong gia đình.
09/04/2013(Xem: 5149)
Lý Càn Đức (Bính Ngọ 1066 - Mậu Thân 1128) là vua thứ 4 nhà Lý, con trai duy nhất của vua Lý Thánh Tông và Ỷ Lan phu nhân tức Linh Nhân hoàng hậu. Càn Đức sinh ra ở Cung Động Tiên, gác Du Thiềm (gác thưởng Trăng) vào tháng Giêng năm Bính Ngọ, niên hiệu Chương Thánh năm thứ 8 (23-2-1066), hồi vua Thánh Tông đã ngoài 40 tuổi. Một ngày sau ngày sinh thì được lập làm Thái tử, 6 tuổi vua cha mất, được tôn làm vua, tức vua Lý Nhân Tông. Vua có tướng hảo, tâm hiền, bản chất thông minh dũng lược.
09/04/2013(Xem: 6113)
Mỗi khi tâm niệm đến hành trạng Thiền sư Vạn Hạnh, chúng ta không thể không đề cập đến con người và sự nghiệp Lý Công Uẩn. Giá trị lịch sử của một con người không chỉ ảnh hưởng đến tự thân mà dư âm giá trị lịch sử của con người đó còn ảnh hưởng trực tiếp đến muôn người khác từ thế hệ này qua thế hệ khác. Và quả thật, Vạn Hạnh Thiền sư là người có công rất lớn trong việc khai sáng ra triều đại nhà Lý thì Lý Công Uẩn là vị vua đầu tiên thực thi tinh thần Vạn Hạnh bằng tất cả sự thể nhập "Đạo Pháp - Dân tộc" trong một thực thể duy nhất.
09/04/2013(Xem: 12716)
Có lần trong tù, đói quá, Thầy Quảng Độ nằm mơ thấy được nhà bếp cho một cái bánh bao. Ăn xong thấy bụng căng thẳng, no nê, rất hạnh phúc. Sự thật là đêm ấy, trước khi đi ngủ, vì đói quá nên thấy uống nước cho đầy bụng dễ ngủ. Và Thầy đã đái dầm ra quần. Sáng hôm đó Thầy có làm một bài thơ.
09/04/2013(Xem: 6313)
Đức Đại Lão Hòa Thượng Chánh Thư Ký Xử Lý Viện Tăng Thống GHPGVNTN là thế hệ thứ 8 của phái Thiền Thiệt Diệu Liễu Quán, Pháp danh Trừng Nguyên, Hiệu Đôn Hậu. Xuất gia và thọ cụ túc với Hòa Thượng Bổn sư là Tổ Tâm Tịnh, khai sơn chùa Tây Thiên Huế, sau các Pháp huynh là quý Hòa Thượng Giác Nguyên, Giác Viên, Giác Tiên, Giác Nhiên...
09/04/2013(Xem: 7462)
Từ ngày 18-23/5/1996 HT.Thích Minh Châu, Phó CT kiêm Tổng thư ký GHPGVN, Viện trưởng Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam, Hiệu trưởng trường CCPHVN... đã lên đường đến Thái Lan để nhận bằng Tiến Sĩ Phật Học Danh Dự (Honarary Doctorate Degree in Buddhist studies) tại Đại Học Phật Giáo Mahachulalongkornrajvidyalaya, Thủ đô Bangkok, Thái lan.
09/04/2013(Xem: 9758)
Thiền sư THÍCH ĐỨC NHUẬN, pháp hiệu Trí Tạng, thế danh Đồng Văn Kha, sinh ngày 14 tháng Chạp năm Quí hợi (thứ bảy, ngày 19 tháng giêng, 1924). Chính quán : làng Lạc Chính, xã Duyên Bình, huyện Trực Ninh, phủ Xuân Trường, tỉnh Nam Định. Thân phụ là Đồng Văn Trung và thân mẫu là bà chính thất Hà Thị Thìn hiệu Trinh Thục (cả hai vị đều đã mãn phần). Là con thứ tư trong một gia đình thanh bần - dòng quí tộc. Ngài có 2 anh, 1 chị và 3 người em dì bào (2 trai, 1 gái).
09/04/2013(Xem: 4861)
Hòa thượng Thích Quảng Đức, thế danh là Lâm Văn Tuất sinh năm 1897 (Đinh Dậu) tại thôn Hội Khánh, xã Vạn Khánh, huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa. Thân sinh là cụ Lâm Hũu Ứng và bà Nguyễn Thị Nương.
09/04/2013(Xem: 7004)
Hòa Thượng Bửu Chơn thế danh là Phạm Văn Thông, sinh năm Tân Hợi (1911) tại Sa Đéc – Đồng Tháp. Thuở thiếu thời Ngài sinh sống tại đất nước Chùa Tháp Campuchia, do đó Ngài thấm nhuần Phật Giáo Nam Tông vốn là quốc giáo của Vương quốc này. Sẵn có túc duyên Phật pháp nên vào năm 1940, Ngài xuất gia thuộc hệ phái Nam Tông. Sau đó Ngài vào rừng chấp trì hạnh đầu đà (Dhatanga) suốt mười hai năm. Năm 1951 Ngài được Phật tử Việt Nam cung thỉnh về Sài Gòn để truyền bá giáo pháp Nguyên Thủy
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567