Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hoà Thượng Thích Huệ Quang (1927 - 2009)

20/10/201920:23(Xem: 2598)
Hoà Thượng Thích Huệ Quang (1927 - 2009)
HT. Thich Hue Quang
Hòa Thượng Thích Huệ Quang
(1927 - 2009)


- Thành viên Hội đồng Chứng minh Giáo hội Phật giáo Việt Nam 

- Chứng minh Ban trị sự Phật giáo tỉnh Khánh Hòa 

- Huynh Trưởng Môn phong Tổ đình Nghĩa Phương 

- Viện chủ Chùa Đông Phước, Phước Long, TP. Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa

I.-THÂN THẾ VÀ SỰ NGHIỆP:

Đại lão Hòa Thượng THÍCH HUỆ QUANG, húy thượng Không hạ Hành, tự Từ Tâm, hiệu Huệ Quang, thuộc dòng Lâm Tế chánh tông đời thứ 41. Thế danh Dương Quyền. Ngài sinh ngày 10 tháng 01 năm Đinh Mão (1927) tại thôn Phước Hải, huyện Vĩnh Xương, tỉnh Khánh Hòa.

Thân phụ là cụ Dương Dõng, người gốc ở Gia Định, phủ Long An, tổng Long Hưng Hạ, xã Phước Lợi, là một nhà nho uyên bác, sùng kính Tam Bảo. Sinh thời thân phụ của ngài thủ chức Kinh Thơ Lại Nê Tấn Thừa Sự, tỉnh Gia Định, hàm Bát phẩm. Hoàn cảnh Nam phần lúc bấy giờ thuộc quyền cai trị của Pháp, nên cả gia đình di tản ra Khánh Hòa, ở vùng Lục Đồn, Nha Trang.

Thân mẫu là cụ bà Huỳnh Thị Na, người ở thôn Tân Tế, phủ Ninh Hoà, Khánh Hòa. Ngài là người con thứ ba trong gia đình có 4 người con. Năm 13 tuổi Ngài đậu Sơ học Yếu lược. Năm 1939, ngài tham học Cours Prémier tại trường Kim Yến Nha Trang. Sau khi thân phụ ngài qua đời, Ngài luôn cận kề bên thân mẫu để chăm dưỡng mẹ già. Mỗi lần về quê thăm mẹ, Ngài thường viếng chùa Thiên Bửu Thượng (phủ Ninh Hòa) và từ đó Ngài xin học đạo với Thượng Tọa Trụ trì, húy Chơn Du, Tự Chánh Thức, hiệu Nhơn Thiện và được Hòa Thượng Nhơn Hoằng hướng dẫn học đạo. 

Sau khi Tổ Nhơn Thiện về Nha Trang, đảm nhiệm trụ trì chùa Đông Phước. Năm 1942 (Nhâm Ngọ) năm Ngài 15 tuổi, xin xuất gia tại đây và được Bổn sư cho pháp danh Không Hành. Lúc này vừa học đạo, vừa học Hán văn với Giáo sư Nguyễn Đức Trọng (tức Nguyễn Hoành) được gần 4 năm thì Cách mạng khởi nghĩa, nhằm vào tháng 8 năm 1945 (Ất Dậu).

Lúc bấy giờ, do chiến tranh hỗn loạn, chùa Đông Phước bị giặc đốt, cả xóm gần chùa cũng bị đốt phá. Ngài đưa mẫu thân về Ninh Hòa để lánh nạn. Đến năm 1948 (Mậu Tý) thân mẫu Ngài qua đời.

Năm 23 tuổi, với lòng quyết chí học đạo, nên Ngài trở về lại chùa Đông Phước thọ giáo với Bổn sư là Hòa Thượng Thích Minh Huệ và được phú pháp tự là Từ Tâm.

Đến năm Nhâm Thìn (1952) 25 tuổi, Ngài thọ Cụ túc giới tại Giới đàn chùa Thiên Bửu, Ninh Hòa, do Tăng cang Hòa Thượng Thích Trí Thắng, Viện chủ chùa Thiên Hưng, Phan Rang làm Đàn đầu truyền giới.

Từ đó Ngài sớm hôm học đạo với Bổn sư là HT. Thích Minh Huệ. Đến năm 1959 HT. Thích Minh Huệ viên tịch. Năm 1960, được Bổn tự, Bổn đạo cung thỉnh Ngài làm Trụ trì chùa Đông Phước. Cũng năm đó (1960) được Hòa Thượng Thích Bích Lâm, Viện chủ Tổ đình Nghĩa Phương phú pháp nhãn tạng, đạo hiệu là Huệ Quang, pháp tử đầu tiên môn phong Nghĩa Phương.

Từ năm 1962, ngoài trách nhiệm tại Bổn tự, Ngài còn tham gia công tác Giáo hội:

- Năm 1962 tu bổ lại chùa Đông Phước lần thứ nhất, vì bị chiến tranh năm 1945 đốt phá hư sập.

- Năm 1966: Phó Tăng trưởng Tỉnh hội Phật gíáo Cổ truyền Khánh Hòa.

- Từ năm 1968 đến năm 1975: Ngài được suy cử làm Tăng trưởng Tỉnh hội Phật giáo Cổ  truyền Khánh Hòa.

- Từ năm 1970 đến năm 1973: kiêm chức Tổng Thư Ký Ban Đại diện Phật giáo Cổ truyền Trung Phần.

- Từ năm 1972 đến năm 1975 lập Trường Tiểu học Bát Nhã nằm ở sau chùa để dạy dỗ con em Phật tử nghèo.

- Sau khi GHPGVN được thành lập, Ngài được đề cử các chức vụ:

Từ năm 1982: Ủy viên Hoằng pháp, Ban Trị sự Tỉnh hội Phật giáo tỉnh Phú Khánh, nhiệm kỳ I (1982-1985) và NK II (1986-1989). Tiếp đó, Ngài đảm nhiệm chức vụ Trưởng ban Hoằng pháp - Ban Trị sự tỉnh hội Phật giáo Khánh Hòa, nhiệm kỳ 1991-1994 và lưu nhiệm đến năm 1996.

*Về phần tham dự các giới đàn:

Trong suốt thời gian hành đạo Cố Đại lão HT. Thích Huệ Quang đã đảm nhận nhiều trọng trách trong các giới đàn truyền giới trên cả nước như:

1.- Ngày 27.9 năm Nhâm Dần (1962): Đệ tứ Tôn chứng, tại Giới đàn chùa Long Quang, Phú Nhuận, Sài Gòn.

2.- Năm Ất Tỵ (1965): Đệ nhất Tôn chứng Giới đàn chùa Thiền Lâm, Quận 6, Lục Tỉnh, Sài Gòn.  3.- Ngày 26.02. Mậu Thân (1968) được suy tôn Giáo Thọ A Xà Lê sư, tại Giới đàn chùa Phật Ấn, đường Trần Hưng Đạo, Sài Gòn.  4.- Ngày 15.3. Kỷ Dậu (1969), được suy tôn Yết Ma A Xà Lê sư, tại Giới đàn chùa Nghĩa Phú, xã Hòa Thắng, huyện Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên.  5.- Ngày 10.4. Canh Tuất (1970) được Tôn cử Tuyên Luật sư tại Giới đàn chùa Phước Duyên, Diên Khánh.  6.- Ngày 15.7. Canh Tuất (1980) được Chư Tôn giáo phẩm Giáo hội Phật giáo Cổ Truyền Việt Nam suy tôn Hòa Thượng tại Giới đàn chùa Cổ tích Bửu Phong, Thị xã Biên Hòa.  7.- Thành viên Ban chức sự các Giới đàn như: Năm 1963: Ban Tổ chức Giới đàn chùa Sắc tứ Minh Tịnh, Quy Nhơn.

Năm 1993: Ban Chức sự Đại Giới đàn Trí Thủ I, tổ chức tại chùa Long Sơn đã cung thỉnh Ngài đảm nhiệm chức vụ Chánh công văn.

Và các kỳ Đại giới đàn năm 1997, 2001, 2005 tổ chức tại Khánh Hòa, Ngài được cung thỉnh làm chứng minh Đại giới đàn.

Từ năm 1990 – 1998, Ban Giám hiệu Trường Trung cấp Phật học tỉnh Khánh Hòa thỉnh Ngài làm Giảng sư suốt 2 khóa I, II

Với Ngài, Đạo pháp và Dân tộc luôn đồng hành vì thế năm 1945, thời kỳ chống Pháp, Ngài tham gia trong hàng ngũ Việt Minh, 1949, bị Pháp bắt ở tù 8 tháng tại 5e Baurau Nha Trang.

*1975 Sau ngày giải phóng đất nước thống nhất:

- Tham gia Mặt Trận Tổ quốc Việt Nam, phường Phước Hải từ năm 1979 đến năm 1993: 5 nhiệm kỳ, với các chức vụ Ủy viên, Phó Chủ tịch UBMTTQVN Phường Phước Hải.

- Hội đồng Nhân dân Phường Phước Hải khoá 4.

- Từ năm 1989 đến năm 1996: 2 nhiệm kỳ Thành viên Mặt trận Tổ quốc Việt Nam TP. Nha Trang.

- Đại lão Hòa Thượng đã được nhiều giấy khen của Ủy Ban MTTQVN thành phố Nha Trang.

- Năm 1996, được tặng thưởng Huy chương vì sự nghiệp Đoàn kết dân tộc: của Trung ương Mặt Trận Tổ quốc Việt Nam.

- Tại Đại hội Đại biểu Phật giáo toàn quốc lần thứ IV (1997-2001) GHPGVN: Ngài được tấn phong Hòa Thượng.

- Tại Đại hội Đại biểu Phật giáo toàn quốc lần thứ V (2002-2007) GHPGVN: Ngài được suy tôn làm thành viên HĐCM TW GHPGVN.

* Về công tác biên dịch:

1.- Ngài đã dịch nghĩa Nghi thức Thiền môn Chánh độ, các nghi lễ thông dụng trong ứng phó Đạo tràng. 

2.- Ngài đã viết Tiểu sử Tổ Khai sơn chùa Đông Phước.

3.- Biên soạn Tiểu sử chùa cổ tích Đông Phước.

Ngoài ra, Ngài cũng thường đặt câu liễn, đối, viết Thư pháp cho nhiều Tự viện trong tỉnh cũng như ngoài tỉnh.

II.-THỜI KỲ VIÊN TỊCH:

Sau hơn 50 năm hành đạo Ngài đã đào tạo được một đội ngũ Chư Tôn đức, có đạo hạnh và năng lực, tham gia công tác Phật sự của Giáo hội và công tác từ thiện xã hội.

Tuy tuổi đã ngoài 80, Ngài vẫn thân hành chống gậy để làm công tác Phật sự cũng như dốc lòng xây dựng hoàn thiện ngôi phạm vũ Đông Phước. Suốt thời gian đảm nhiệm trụ trì chùa Đông Phước, Ngài đã nhiều lần trùng tu tôn tạo ngôi Tam Bảo. Đặc biệt, năm 2007, dưới sự chứng minh của Thường trực BTS THPG Khánh Hòa, Ngài đã Đại trùng tu toàn cảnh ngôi Đông Phước cổ tự như ngày nay. 

Thuận thế vô thường, thân tứ đại mỏi mòn theo nhật nguyệt, sau một thời gian lâm trọng bệnh. Tuy được môn phong huynh đệ, môn đồ pháp quyến, cùng quý vị y, bác sĩ tận tình chăm sóc, chữa trị. Song, vì tuổi cao sức yếu Ngài đã thâu thần an nhiên viên tịch, vào lúc nửa đêm giờ Tý, 01 giờ 20 ngày 10 tháng 7 năm Kỷ Sửu (2009), tại ngôi chùa Đông Phước - nơi mà 67 năm về trước Ngài đã xuất gia. Ngài trụ thế 83 năm, hạ lạp 57 năm. 

Hỡi ơi:

Dép cỏ lối về còn lưu dấu 

Hoa đàm tuy rụng vẫn ngát hương 

Một mai thân xác quy Tây 

Danh thơm vẫn ở thế gian muôn đời 

Pháp thân lồng lộng sáng ngời 

Chiếu soi pháp giới rạng ngời chân như.

Đệ tử Trí Bửu thành kính tưởng niệm húy nhật làn thứ 8 cố Đại lão Hòa thượng Thượng Huệ hạ Quang (10/7/2009-10/7/2017)

 


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/11/2010(Xem: 7057)
Vào ngày 1-11-1963 khi quân đội đứng lên làm cuộc đảo chánh lật đổ chế độ của gia đình Ô. Ngô Đình Diệm - mà Hội Đồng Quân Dân Cách Mạng do Đại Tướng Dương Văn Minh cầm đầu gọi đó là cuộc “Cách Mạng” thì tôi là cậu sinh viên Luật Khoa Năm Thứ Nhất, chuẩn bị thi lên Năm Thứ Hai của Đại Học Luật Khoa Sài Gòn. Bố tôi sính đọc sách báo, vả lại gia đình cư ngụ ở xóm lao động cho nên Radio hàng xóm mở ầm ầm cả ngày khiến dù không muốn nghe nhưng cũng phải nghe tin tức từng giờ của đài phát thanh. Hơn thế nữa khi Sài Gòn nổ ra cuộc đấu tranh của Phật Giáo thì hầu như các đại học, trung học đều đóng của hoặc tự động bãi khóa.
10/11/2010(Xem: 6659)
Hoà Thượng thế danh Diệp Quang Tiền, pháp danh Tâm Khai, tự Thiện Giác, hiệu Trí Ấn Nhật Liên. Ngài sanh ngày 13 tháng 10 năm Quý Hợi (1923) tại thôn Xuân Yên, xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân phụ là cụ Diệp Chí Hoan; thân mẫu là cụ bà Phan Thị Đường. Hai cụ sinh hạ được 5 người con : 4 nam, 1 nữ - Ngài là con thứ trong gia đình, sau anh trưởng là Thầy Diệp Tôn (Thích Thiện Liên). Năm lên 6 tuổi (1928) gia đình Ngài dời về thôn Diên Sanh, xã Hải Thọ, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Thân sinh Ngài đã rước thầy Đồ Nho danh tiếng về nhà để dạy chữ Hán cho hai con. Hai anh em Ngài thường được cụ Đồ khen là thông minh, hứa hẹn một tương lai tốt đẹp. Năm lên 10 tuổi (1932), Ngài theo học Việt Văn tại thôn Diên Sanh.
02/11/2010(Xem: 6954)
Thành kính khẩn bạch đến chư Tôn Đức Tăng Già của quý Giáo Hội, quý Tự Viện, quý tổ chức Phật Giáo cùng toàn thể chư vị thiện nam tín nữ Phật tử: Đại Lão Hòa Thượng thượng Huyền, hạ Ấn, thế danh Hoàng Không Uẩn, sinh năm 1928 tại Quảng Bình, Việt Nam
01/11/2010(Xem: 1042)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
01/11/2010(Xem: 34017)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
29/10/2010(Xem: 4769)
Kể từ khi vết tích của chùa Thiên Mụ được ghi lại đơn sơ trong sách Ô Châu Cận Lục vào năm 1553 (1), chùa đã tồn tại gần 450 năm cho đến ngày nay. Trải qua bao nhiêu cuộc bể dâu, chùa vẫn giữ được địa vị và vẫn đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống đạo và đời của dân Huế, nói riêng, và của dân cả nước, nói chung. Qua đầu thế kỷ 17, chùa đã thực sự đi vào lịch sử sau khi Nguyễn Hoàng vào xứ đàng trong để gây dựng cơ nghiệp đế vương với huyền thoại “bà tiên mặc áo đỏ” (9).
23/10/2010(Xem: 4694)
Trong Cây Có Hoa Trong Đá Có Lửa Kính Dâng Hòa Thượng Thích Như Điển nhân dịp mừng thọ 70 tuổi của Ngài và kỷ niệm 40 năm khai sơn Chùa Viên Giác tại Đức Quốc Tỳ Kheo Thích Nguyên Tạng “Trong Cây Có Hoa, Trong Đá Có Lửa” là lời pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên do Hòa Thượng Thích Như Điển nhắc lại trong thời giảng Pháp của Ngài mà tôi đã nghe được khi theo hầu Ngài trong chuyến đi Hoằng Pháp tại Hoa Kỳ năm 2006. Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen) là người Nhật, Ngài sinh năm 1200 và tịch năm 1253, thọ 53 tuổi. Ngài là Sáng Tổ của của Soto-Zen (Thiền Tào Động) của Nhật Bản, và là tác giả bộ sách nổi tiếng “Chánh Pháp Nhãn Tạng” “Ki no naka ni, hana ga aru (Trong cây có hoa), Ishi no naka ni, hi ga aru (Trong đá có lửa)” Đó là pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen), được Hòa Thượng Như Điển dịch sang lời Việt. Lời thơ quá tuyệt vời, tuy ngắn gọn nhưng dung chứa cả một kho tàng giáo lý về Nhân Duyên Quả của Đạo Phật.
23/10/2010(Xem: 4657)
Trong mười thế kỷ phong kiến Việt Nam, Trần Nhân Tông là một trong những ông vua giỏi và tài hoa bậc nhất. Lịch sử đã xem ông là “vị vua hiền” đời Trần, có công lớn trong sự nghiệp trùng hưng đất nước. Văn học sẽ nhớ mãi ông bởi những vần thơ thanh nhã, sâu sắc và không kém hào hùng.
23/10/2010(Xem: 4601)
Về sự nghiệp của vua Trần Nhân Tông, đã có rất nhiều tài liệu và bài viết về hai lần lãnh đạo quân dân nước ta đánh thắng giặc Mông - Nguyên, trị quốc an dân, đối ngoại và mở cõi, nên ở đây chúng tôi không lặp lại nữa, mà chỉ đề cập đôi nét đến nội dung khác về: Trần Nhân Tông - một hoàng đế xuất gia, một thiền sư đắc đạo và là sơ tổ lập nên dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử độc đáo của Việt Nam.
23/10/2010(Xem: 4941)
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa. Bác sĩ Nguyễn Văn Khỏe, một cây cột trụ của hội Lưỡng Xuyên Phật Học cũ đảm nhận trách vụ hội trưởng. Ông Mai Thọ Truyền giữ trách vụ tổng thư ký. Các thiền sư Quảng Minh và Nhật Liên đã triệt để ủng hộ cho việc tổ chức hội Phật Học Nam Việt. Thiền sư Quảng Minh được bầu làm hội trưởng của hội bắt đầu từ năm 1952. Năm 1955, sau khi thiền sư Quảng Minh đi Nhật du học, ông Mai Thọ Truyền giữ chức vụ hội trưởng. Chức vụ này ông giữ cho đến năm 1973, khi ông mất. Hội Phật Học Nam Việt được thành lập do nghị định của Thủ Hiến Nam Việt ký ngày 19.9.1950. Bản tuyên cáo của hội có nói đến nguyện vọng thống nhất các đoàn thể Phật giáo trong nước. Bản tuyên cáo viết: "Đề xướng việc lập hội Phật học này. Chúng tôi còn có cái thâm ý đi đến chỗ Bắc Trung Nam sẽ bắt tay trên nguyên tắc cũng như trong hành động. Sự
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567