Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hoà Thượng Thích Huệ Quang (1927 - 2009)

20/10/201920:23(Xem: 3714)
Hoà Thượng Thích Huệ Quang (1927 - 2009)
HT. Thich Hue Quang
Hòa Thượng Thích Huệ Quang
(1927 - 2009)


- Thành viên Hội đồng Chứng minh Giáo hội Phật giáo Việt Nam 

- Chứng minh Ban trị sự Phật giáo tỉnh Khánh Hòa 

- Huynh Trưởng Môn phong Tổ đình Nghĩa Phương 

- Viện chủ Chùa Đông Phước, Phước Long, TP. Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa

I.-THÂN THẾ VÀ SỰ NGHIỆP:

Đại lão Hòa Thượng THÍCH HUỆ QUANG, húy thượng Không hạ Hành, tự Từ Tâm, hiệu Huệ Quang, thuộc dòng Lâm Tế chánh tông đời thứ 41. Thế danh Dương Quyền. Ngài sinh ngày 10 tháng 01 năm Đinh Mão (1927) tại thôn Phước Hải, huyện Vĩnh Xương, tỉnh Khánh Hòa.

Thân phụ là cụ Dương Dõng, người gốc ở Gia Định, phủ Long An, tổng Long Hưng Hạ, xã Phước Lợi, là một nhà nho uyên bác, sùng kính Tam Bảo. Sinh thời thân phụ của ngài thủ chức Kinh Thơ Lại Nê Tấn Thừa Sự, tỉnh Gia Định, hàm Bát phẩm. Hoàn cảnh Nam phần lúc bấy giờ thuộc quyền cai trị của Pháp, nên cả gia đình di tản ra Khánh Hòa, ở vùng Lục Đồn, Nha Trang.

Thân mẫu là cụ bà Huỳnh Thị Na, người ở thôn Tân Tế, phủ Ninh Hoà, Khánh Hòa. Ngài là người con thứ ba trong gia đình có 4 người con. Năm 13 tuổi Ngài đậu Sơ học Yếu lược. Năm 1939, ngài tham học Cours Prémier tại trường Kim Yến Nha Trang. Sau khi thân phụ ngài qua đời, Ngài luôn cận kề bên thân mẫu để chăm dưỡng mẹ già. Mỗi lần về quê thăm mẹ, Ngài thường viếng chùa Thiên Bửu Thượng (phủ Ninh Hòa) và từ đó Ngài xin học đạo với Thượng Tọa Trụ trì, húy Chơn Du, Tự Chánh Thức, hiệu Nhơn Thiện và được Hòa Thượng Nhơn Hoằng hướng dẫn học đạo. 

Sau khi Tổ Nhơn Thiện về Nha Trang, đảm nhiệm trụ trì chùa Đông Phước. Năm 1942 (Nhâm Ngọ) năm Ngài 15 tuổi, xin xuất gia tại đây và được Bổn sư cho pháp danh Không Hành. Lúc này vừa học đạo, vừa học Hán văn với Giáo sư Nguyễn Đức Trọng (tức Nguyễn Hoành) được gần 4 năm thì Cách mạng khởi nghĩa, nhằm vào tháng 8 năm 1945 (Ất Dậu).

Lúc bấy giờ, do chiến tranh hỗn loạn, chùa Đông Phước bị giặc đốt, cả xóm gần chùa cũng bị đốt phá. Ngài đưa mẫu thân về Ninh Hòa để lánh nạn. Đến năm 1948 (Mậu Tý) thân mẫu Ngài qua đời.

Năm 23 tuổi, với lòng quyết chí học đạo, nên Ngài trở về lại chùa Đông Phước thọ giáo với Bổn sư là Hòa Thượng Thích Minh Huệ và được phú pháp tự là Từ Tâm.

Đến năm Nhâm Thìn (1952) 25 tuổi, Ngài thọ Cụ túc giới tại Giới đàn chùa Thiên Bửu, Ninh Hòa, do Tăng cang Hòa Thượng Thích Trí Thắng, Viện chủ chùa Thiên Hưng, Phan Rang làm Đàn đầu truyền giới.

Từ đó Ngài sớm hôm học đạo với Bổn sư là HT. Thích Minh Huệ. Đến năm 1959 HT. Thích Minh Huệ viên tịch. Năm 1960, được Bổn tự, Bổn đạo cung thỉnh Ngài làm Trụ trì chùa Đông Phước. Cũng năm đó (1960) được Hòa Thượng Thích Bích Lâm, Viện chủ Tổ đình Nghĩa Phương phú pháp nhãn tạng, đạo hiệu là Huệ Quang, pháp tử đầu tiên môn phong Nghĩa Phương.

Từ năm 1962, ngoài trách nhiệm tại Bổn tự, Ngài còn tham gia công tác Giáo hội:

- Năm 1962 tu bổ lại chùa Đông Phước lần thứ nhất, vì bị chiến tranh năm 1945 đốt phá hư sập.

- Năm 1966: Phó Tăng trưởng Tỉnh hội Phật gíáo Cổ truyền Khánh Hòa.

- Từ năm 1968 đến năm 1975: Ngài được suy cử làm Tăng trưởng Tỉnh hội Phật giáo Cổ  truyền Khánh Hòa.

- Từ năm 1970 đến năm 1973: kiêm chức Tổng Thư Ký Ban Đại diện Phật giáo Cổ truyền Trung Phần.

- Từ năm 1972 đến năm 1975 lập Trường Tiểu học Bát Nhã nằm ở sau chùa để dạy dỗ con em Phật tử nghèo.

- Sau khi GHPGVN được thành lập, Ngài được đề cử các chức vụ:

Từ năm 1982: Ủy viên Hoằng pháp, Ban Trị sự Tỉnh hội Phật giáo tỉnh Phú Khánh, nhiệm kỳ I (1982-1985) và NK II (1986-1989). Tiếp đó, Ngài đảm nhiệm chức vụ Trưởng ban Hoằng pháp - Ban Trị sự tỉnh hội Phật giáo Khánh Hòa, nhiệm kỳ 1991-1994 và lưu nhiệm đến năm 1996.

*Về phần tham dự các giới đàn:

Trong suốt thời gian hành đạo Cố Đại lão HT. Thích Huệ Quang đã đảm nhận nhiều trọng trách trong các giới đàn truyền giới trên cả nước như:

1.- Ngày 27.9 năm Nhâm Dần (1962): Đệ tứ Tôn chứng, tại Giới đàn chùa Long Quang, Phú Nhuận, Sài Gòn.

2.- Năm Ất Tỵ (1965): Đệ nhất Tôn chứng Giới đàn chùa Thiền Lâm, Quận 6, Lục Tỉnh, Sài Gòn.  3.- Ngày 26.02. Mậu Thân (1968) được suy tôn Giáo Thọ A Xà Lê sư, tại Giới đàn chùa Phật Ấn, đường Trần Hưng Đạo, Sài Gòn.  4.- Ngày 15.3. Kỷ Dậu (1969), được suy tôn Yết Ma A Xà Lê sư, tại Giới đàn chùa Nghĩa Phú, xã Hòa Thắng, huyện Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên.  5.- Ngày 10.4. Canh Tuất (1970) được Tôn cử Tuyên Luật sư tại Giới đàn chùa Phước Duyên, Diên Khánh.  6.- Ngày 15.7. Canh Tuất (1980) được Chư Tôn giáo phẩm Giáo hội Phật giáo Cổ Truyền Việt Nam suy tôn Hòa Thượng tại Giới đàn chùa Cổ tích Bửu Phong, Thị xã Biên Hòa.  7.- Thành viên Ban chức sự các Giới đàn như: Năm 1963: Ban Tổ chức Giới đàn chùa Sắc tứ Minh Tịnh, Quy Nhơn.

Năm 1993: Ban Chức sự Đại Giới đàn Trí Thủ I, tổ chức tại chùa Long Sơn đã cung thỉnh Ngài đảm nhiệm chức vụ Chánh công văn.

Và các kỳ Đại giới đàn năm 1997, 2001, 2005 tổ chức tại Khánh Hòa, Ngài được cung thỉnh làm chứng minh Đại giới đàn.

Từ năm 1990 – 1998, Ban Giám hiệu Trường Trung cấp Phật học tỉnh Khánh Hòa thỉnh Ngài làm Giảng sư suốt 2 khóa I, II

Với Ngài, Đạo pháp và Dân tộc luôn đồng hành vì thế năm 1945, thời kỳ chống Pháp, Ngài tham gia trong hàng ngũ Việt Minh, 1949, bị Pháp bắt ở tù 8 tháng tại 5e Baurau Nha Trang.

*1975 Sau ngày giải phóng đất nước thống nhất:

- Tham gia Mặt Trận Tổ quốc Việt Nam, phường Phước Hải từ năm 1979 đến năm 1993: 5 nhiệm kỳ, với các chức vụ Ủy viên, Phó Chủ tịch UBMTTQVN Phường Phước Hải.

- Hội đồng Nhân dân Phường Phước Hải khoá 4.

- Từ năm 1989 đến năm 1996: 2 nhiệm kỳ Thành viên Mặt trận Tổ quốc Việt Nam TP. Nha Trang.

- Đại lão Hòa Thượng đã được nhiều giấy khen của Ủy Ban MTTQVN thành phố Nha Trang.

- Năm 1996, được tặng thưởng Huy chương vì sự nghiệp Đoàn kết dân tộc: của Trung ương Mặt Trận Tổ quốc Việt Nam.

- Tại Đại hội Đại biểu Phật giáo toàn quốc lần thứ IV (1997-2001) GHPGVN: Ngài được tấn phong Hòa Thượng.

- Tại Đại hội Đại biểu Phật giáo toàn quốc lần thứ V (2002-2007) GHPGVN: Ngài được suy tôn làm thành viên HĐCM TW GHPGVN.

* Về công tác biên dịch:

1.- Ngài đã dịch nghĩa Nghi thức Thiền môn Chánh độ, các nghi lễ thông dụng trong ứng phó Đạo tràng. 

2.- Ngài đã viết Tiểu sử Tổ Khai sơn chùa Đông Phước.

3.- Biên soạn Tiểu sử chùa cổ tích Đông Phước.

Ngoài ra, Ngài cũng thường đặt câu liễn, đối, viết Thư pháp cho nhiều Tự viện trong tỉnh cũng như ngoài tỉnh.

II.-THỜI KỲ VIÊN TỊCH:

Sau hơn 50 năm hành đạo Ngài đã đào tạo được một đội ngũ Chư Tôn đức, có đạo hạnh và năng lực, tham gia công tác Phật sự của Giáo hội và công tác từ thiện xã hội.

Tuy tuổi đã ngoài 80, Ngài vẫn thân hành chống gậy để làm công tác Phật sự cũng như dốc lòng xây dựng hoàn thiện ngôi phạm vũ Đông Phước. Suốt thời gian đảm nhiệm trụ trì chùa Đông Phước, Ngài đã nhiều lần trùng tu tôn tạo ngôi Tam Bảo. Đặc biệt, năm 2007, dưới sự chứng minh của Thường trực BTS THPG Khánh Hòa, Ngài đã Đại trùng tu toàn cảnh ngôi Đông Phước cổ tự như ngày nay. 

Thuận thế vô thường, thân tứ đại mỏi mòn theo nhật nguyệt, sau một thời gian lâm trọng bệnh. Tuy được môn phong huynh đệ, môn đồ pháp quyến, cùng quý vị y, bác sĩ tận tình chăm sóc, chữa trị. Song, vì tuổi cao sức yếu Ngài đã thâu thần an nhiên viên tịch, vào lúc nửa đêm giờ Tý, 01 giờ 20 ngày 10 tháng 7 năm Kỷ Sửu (2009), tại ngôi chùa Đông Phước - nơi mà 67 năm về trước Ngài đã xuất gia. Ngài trụ thế 83 năm, hạ lạp 57 năm. 

Hỡi ơi:

Dép cỏ lối về còn lưu dấu 

Hoa đàm tuy rụng vẫn ngát hương 

Một mai thân xác quy Tây 

Danh thơm vẫn ở thế gian muôn đời 

Pháp thân lồng lộng sáng ngời 

Chiếu soi pháp giới rạng ngời chân như.

Đệ tử Trí Bửu thành kính tưởng niệm húy nhật làn thứ 8 cố Đại lão Hòa thượng Thượng Huệ hạ Quang (10/7/2009-10/7/2017)

 


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
12/03/2011(Xem: 7312)
Phạm Công thiện, ông là ai? Có nhiều người đã hỏi như thế. Triết gia? Thiền sư? Thi sĩ? Văn sĩ? Hay là một người lang thang rong chơi trong cuộc đời ? Hay là nghệ sĩ với ước vọng thành một tài năng lớn của thế giới? Hoặc là một người đang trong cơn mộng du suốt cả đời? Trần Tuấn Kiệt trong một bài viết trong “Tác Giả Tác Phẩm“, xuất bản cách nay gần bốn chục năm, cũng nói về chân dung người thi sĩ rất mực nghệ sĩ này:
25/02/2011(Xem: 6921)
Lễ huý nhật Ôn Trí Thủ năm 2005 tại Quảng Hương Già Lam
19/02/2011(Xem: 5816)
Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Huyền Tôn, đệ tử của Đệ Lục Tổ Sư Thiên Ấn Tự, Hòa Thượng Tăng Cang Thích Chơn Trung, thế danh Nguyễn Thái Long, pháp danh Như Kế, pháp tự Giải Tích, pháp hiệu Huyền Tôn. Ngài sinh năm Mậu Thìn (1928.Việt lịch: 4807) tại làng Châu Nhai, Huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi, Việt Nam. Thân phụ, bán thế xuất gia là Đại Sư thượng Như hạ Quý (1874-1942), Thân mẫu là Cụ bà Thái Thị Túc, pháp danh Như Chỉnh, tự Giải Lý (1891-1945).
13/02/2011(Xem: 19567)
Ca Sĩ Gia Huy, Tên thật của Gia Huy là Đặng Quốc Hung. Anh đến Montreal, Canada vào năm 1991 để cùng đoàn tụ với gia đình. Anh hát lần đầu tiên tại vũ trường Chateau Du Parc tại Montreal. Lúc đó, anh hát với ban nhạc Phạm Mạnh Cường để trình bày những tác phẩm như "Máu Nhuộm Bãi Thượng Hải", "Mười Năm Tình Cũ" và "Lambada". Ngay sau lần trình diễn đầu tiên, Gia Huy trở thành một ấn tượng của dân chúng tại Montreal. Anh bắt đầu hát cho một số vũ trường tại địa phương như Bistro Dore, Miss Sai Gòn, và Đêm Sai Gòn. Tuy nhiên, mục đích của Gia Huy là nổi danh ngoài Canada và khuếch trương số khán thính giả đi khắp thế giới.
30/01/2011(Xem: 6073)
Hòa Thượng Thích Như Điển - Đệ Nhị Chủ Tịch Hội Đồng Điều Hành GHPGVNTN Âu Châu - Phương Trượng Chùa Viên Giác, Hannover, Đức Quốc
14/01/2011(Xem: 6186)
Hòa thượng họ Hồ Đắc, tên Cư, Pháp danh Tâm Thật, Pháp hiệu Thiện Châu, sinh ngày 23 tháng 2 năm 1931 tức ngày 7 tháng 1 năm Tân Mùi tại làng An Truyền, huyện Phú Vang, Tỉnh Thừa Thiên. Thân phụ Thầy là Cụ Hồ Đắc Phách, thân mẫu là Cụ Nguyễn Thị Cần. Thầy xuất gia năm 16 tuổi (1947) và thọ giới tỳ kheo năm 1952. Bổn sư của Thầy là Cố Đại Lão Hòa Thượng Thích Giác Nguyên, Viện chủ Tổ Đình Tây Thiên (Huế).
07/01/2011(Xem: 7036)
Ông vua đầu tiên của nhà Trần và cũng là một thiền sư cư sỹ, Trần Cảnh (Trần Thái Tông) (1218-1277) đã để lại một sự nghiệp chính trị, một dòng văn học bất hủ, đến bây giờ vẫn mãi là kim chỉ nam, ngọn đuốc soi đường trong đêm dài tăm tối, cho những ai tìm phương vượt thoát, lộ trình cho những ai muốn đưa dân tộc tìm tới đỉnh cao của nhân bản và an lạc.
05/01/2011(Xem: 5865)
Về việc Hòa Thượng Đôn Hậu lên núi, ra Bắc trong vụ Tết Mậu Thân được thầy Trí Tựu, Trú Trì chùa Linh Mụ thuật lại như sau: (lúc 12:00 giờ trưa, ngày 12-3-2009 tại chùa Linh Mụ) Vào khoảng quá nửa đêm tối Mồng một Tết Mậu Thân, có một phái đoàn gồm quân nhân và người mặc thường phục đến thăm Ôn. Ôn đang bị bệnh, bệnh suyễn và xuất huyết dạ dày. Thầy ngồi đàng xa. Thầy Trí Lưu, thân phụ của thầy Trí Siêu Lê Mạnh Thát, lúc đó là Tri Sự chùa Linh Mụ, ngồi gần Ôn. Họ mời Ôn về Huế họp. Ôn từ chối nói đau không đi được. Họ nói có người đưa Ôn đi. Sau đó người ta gánh Ôn đi trên một chiếc võng, từ chùa Linh Mụ, không về Huế mà rẽ về Chợ Thông thuộc làng An Ninh Hạ, đến La Chữ. Ban ngày núp, nghỉ, ban đêm đi. Sau một tháng đến Seopon giáp giới Lào. Máy bay trực thăng bay trên đầu mà không bắn. Trên đường đi, thiếu lương thực, bị hạm đội Mỹ pháo kích. Nhiều người bị chết vì đói và sốt rét. (Được kể lại sau 1975). Rồi sau đó từ Huế ra Hà Nội mất hết 4 tháng, đi theo đường Mòn Hồ Chí Minh đến
30/12/2010(Xem: 5797)
Nguyễn Du (1765-1820) tự là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên, biệt hiệu Hồng Sơn Liệp Hộ, Nam Hải Điếu Đồ, sinh trưởng trong gia đình phong kiến quý tộc có nhiều danh vọng, quê gốc ở làng Tiên Điền, Nghi Xuân, Hà Tĩnh. Cha và anh của ông giữ những chức vụ quan trọng trong phủ chúa Trịnh. Thời trẻ ông tập ấm một chức quan võ nhỏ của cha nuôi họ Hà ở Thái Nguyên. Năm 1787, Tây Sơn ra Bắc diệt Trịnh, ông bắt đầu thời kỳ “Thập tải phong trần” (Mười năm gió bụi). Sau ông phục vụ nhà Nguyễn, làm đến Hữu Tham tri Bộ Lễ, từng được cử làm chánh sứ đi sứ Trung Quốc.
30/12/2010(Xem: 5590)
Viết về cụ Nguyễn Du mà chúng ta không nói đến lòng thương vô hạn của cụ đối với chính mình đối với tha nhân, đối với xã hội thì đó là một vấn đề thiếu sót; viết về Nguyễn Du mà không nói đến Phật giáo thì đó cũng là một thiếu sót quang trọng, vì toàn bộ sự nghiệp văn thơ của cụ đều phát xuất từ hai quan điểm này để từ đó cụ gởi gắm tâm sự của cụ lại cho người hậu thế.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]