Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Sơ Lược Tiểu Sử Hòa Thượng Thích Giác Khang (1941 - 2013)

20/10/201920:24(Xem: 16228)
Sơ Lược Tiểu Sử Hòa Thượng Thích Giác Khang (1941 - 2013)
HT Thích Giác Khang

Sơ Lược Tiểu Sử Hòa Thượng Thích Giác Khang 
(1941 - 2013)

Hòa thượng Giác Khang thế danh Tô Văn Vinh sinh năm 1941 tại tỉnh Bạc Liêu. Thân sinh là cụ ông Tô Khanh. Thân mẫu là cụ bà Trần Thị Vén. Gia đình có 5 trai, 5 gái. Hòa thượng là con thứ 8 trong gia đình. Hòa thượng tốt nghiệp Tú Tài và học Cao đẳng Sư phạm. Ra trường đi dạy học ở Cái Côn – Cần Thơ.

Trong thời gian đi dạy học, Hòa thượng có nghiên cứu các tôn giáo, trong đó có Phật giáo. Cảm nhận lời Phật dạy qua câu [I]“Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành”,[/I] Hòa thượng ngộ được lý Bình đẳng của đạo Phật.

Rồi từ đó Hòa thượng tiếp tục nghiên cứu sâu về giáo lý Phật giáo và đến tham vấn nhiều chư Tăng về sự xuất gia cũng như giáo lý Phật-đà. Hòa thượng cảm nhận được long từ bi của chư Phật qua giáo lý ăn chay, từ đó Hòa thượng phát tâm trường chay.

Thấm nhuần lời Phật dạy và dạy ích của sự xuất gia giải thoát, đầu 1966, Hòa thượng phát nguyện xuất gia tu học nương theo Bổn Sư là Đức Tri Sư Giác Như tại Tịnh xá Ngọc Vân tỉnh Trà Vinh. Cùng năm ấy, Hòa thượng thọ giới Sa-di tại Tịnh xá Ngọc Vân – Trà Vinh.

Đến rằm tháng 7-1971, Ngài thọ giới cụ túc Tỳ-kheo tại Tịnh xá Ngọc Viên – Vĩnh Long, rồi luân chuyển đến các Tịnh xá giáo đoàn I tu học để góp phần cùng chư Tăng hoằng pháp độ sinh tại các trú xứ.

Đầu 1975, Hòa thượng theo đoàn Du Tăng Khất Sĩ của Đức Nhị Tổ và chư Tăng trong đoàn hành đạo tại tỉnh Bạc Liêu và tỉnh Cà Mau.

Đến 1980, theo đoàn hành đạo về huyện Vĩnh Châu tỉnh Sóc Trăng.

Đến 1982, Hòa thượng về Tịnh xá Ngọc Vân – Trà Vinh tu học để phụ tiếp với Đức Tri sự Bổn Sư.

Đến 17-4-1983, đức Tri sự Giác Như viên tịch, Hòa thượng tiếp nối kế thừa để trông nôm tịnh xá và hướng dẫn chư Tăng và Phật tử tu học.

Chẳng những tại địa phương mà tại các đạo tràng có nhu cầu thỉnh pháp, Hòa thượng đều đến để thuyết giảng chánh pháp như: Tịnh xá Ngọc Trường, Chùa Phước Thành, Chùa Thanh Quang, Chùa Phước An. Các tịnh xá ngoài tỉnh như: Tịnh xá Ngọc Viên – Vĩnh Long, Tịnh xá Ngọc Lợi – Bạc Liêu, v.v…

Vào ngày mùng 10/2/2013 (âm lịch), Hòa thượng và quí sư cùng Phật tử trong đoàn đi hành hương chiêm bái các Thánh tích Phật giáo Ấn Độ và có thăm viếng chùa Tây Tạng tại Dharamsala dưới chân núi Himalaya, Ấn Độ.

Rồi sau đó, đoàn hành hương đến Thái Lan để thăm viếng các chùa. Đoàn dừng chân khoảng trên 1 tuần lễ và có ý đi Miến Điện để chiêm bái các Thánh tích.

Kể từ đó, sức khỏe Hòa thượng yếu dần, chư Tăng và quí Phật tử tận tình chăm sóc. Hòa thượng cảm nhận biết rằng mình không còn tại thế lâu dài được nữa, nên Hòa thượng trình tâm nguyện lên Hòa thượng Giác Giới – Tri Sự trưởng GĐ1 liễu tri để Hòa thượng tạo duyên tu học cho chư Tăng và chư Phật tử đạo tràng Tịnh xá Ngọc Vân.

Theo lời Phật dạy, các pháp hữu vi vô thường sinh diệt. Vào lúc 15 giờ ngày 30 tháng 3 năm Quý Tỵ. Hòa thượng thu thần thị tịch, để lại vô vàn sự kính tiếc của chư Tăng Ni và toàn thể quý Phật tử gần xa.

Cả đời Hòa thượng đã tích cực tu hành và truyền bá pháp môn Tịnh Độ, sau khi vãng sanh ngài đã để lại rất nhiều xá lợi.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
12/03/2011(Xem: 7312)
Phạm Công thiện, ông là ai? Có nhiều người đã hỏi như thế. Triết gia? Thiền sư? Thi sĩ? Văn sĩ? Hay là một người lang thang rong chơi trong cuộc đời ? Hay là nghệ sĩ với ước vọng thành một tài năng lớn của thế giới? Hoặc là một người đang trong cơn mộng du suốt cả đời? Trần Tuấn Kiệt trong một bài viết trong “Tác Giả Tác Phẩm“, xuất bản cách nay gần bốn chục năm, cũng nói về chân dung người thi sĩ rất mực nghệ sĩ này:
25/02/2011(Xem: 6918)
Lễ huý nhật Ôn Trí Thủ năm 2005 tại Quảng Hương Già Lam
19/02/2011(Xem: 5808)
Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Huyền Tôn, đệ tử của Đệ Lục Tổ Sư Thiên Ấn Tự, Hòa Thượng Tăng Cang Thích Chơn Trung, thế danh Nguyễn Thái Long, pháp danh Như Kế, pháp tự Giải Tích, pháp hiệu Huyền Tôn. Ngài sinh năm Mậu Thìn (1928.Việt lịch: 4807) tại làng Châu Nhai, Huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi, Việt Nam. Thân phụ, bán thế xuất gia là Đại Sư thượng Như hạ Quý (1874-1942), Thân mẫu là Cụ bà Thái Thị Túc, pháp danh Như Chỉnh, tự Giải Lý (1891-1945).
13/02/2011(Xem: 19564)
Ca Sĩ Gia Huy, Tên thật của Gia Huy là Đặng Quốc Hung. Anh đến Montreal, Canada vào năm 1991 để cùng đoàn tụ với gia đình. Anh hát lần đầu tiên tại vũ trường Chateau Du Parc tại Montreal. Lúc đó, anh hát với ban nhạc Phạm Mạnh Cường để trình bày những tác phẩm như "Máu Nhuộm Bãi Thượng Hải", "Mười Năm Tình Cũ" và "Lambada". Ngay sau lần trình diễn đầu tiên, Gia Huy trở thành một ấn tượng của dân chúng tại Montreal. Anh bắt đầu hát cho một số vũ trường tại địa phương như Bistro Dore, Miss Sai Gòn, và Đêm Sai Gòn. Tuy nhiên, mục đích của Gia Huy là nổi danh ngoài Canada và khuếch trương số khán thính giả đi khắp thế giới.
30/01/2011(Xem: 6065)
Hòa Thượng Thích Như Điển - Đệ Nhị Chủ Tịch Hội Đồng Điều Hành GHPGVNTN Âu Châu - Phương Trượng Chùa Viên Giác, Hannover, Đức Quốc
14/01/2011(Xem: 6183)
Hòa thượng họ Hồ Đắc, tên Cư, Pháp danh Tâm Thật, Pháp hiệu Thiện Châu, sinh ngày 23 tháng 2 năm 1931 tức ngày 7 tháng 1 năm Tân Mùi tại làng An Truyền, huyện Phú Vang, Tỉnh Thừa Thiên. Thân phụ Thầy là Cụ Hồ Đắc Phách, thân mẫu là Cụ Nguyễn Thị Cần. Thầy xuất gia năm 16 tuổi (1947) và thọ giới tỳ kheo năm 1952. Bổn sư của Thầy là Cố Đại Lão Hòa Thượng Thích Giác Nguyên, Viện chủ Tổ Đình Tây Thiên (Huế).
07/01/2011(Xem: 7029)
Ông vua đầu tiên của nhà Trần và cũng là một thiền sư cư sỹ, Trần Cảnh (Trần Thái Tông) (1218-1277) đã để lại một sự nghiệp chính trị, một dòng văn học bất hủ, đến bây giờ vẫn mãi là kim chỉ nam, ngọn đuốc soi đường trong đêm dài tăm tối, cho những ai tìm phương vượt thoát, lộ trình cho những ai muốn đưa dân tộc tìm tới đỉnh cao của nhân bản và an lạc.
05/01/2011(Xem: 5861)
Về việc Hòa Thượng Đôn Hậu lên núi, ra Bắc trong vụ Tết Mậu Thân được thầy Trí Tựu, Trú Trì chùa Linh Mụ thuật lại như sau: (lúc 12:00 giờ trưa, ngày 12-3-2009 tại chùa Linh Mụ) Vào khoảng quá nửa đêm tối Mồng một Tết Mậu Thân, có một phái đoàn gồm quân nhân và người mặc thường phục đến thăm Ôn. Ôn đang bị bệnh, bệnh suyễn và xuất huyết dạ dày. Thầy ngồi đàng xa. Thầy Trí Lưu, thân phụ của thầy Trí Siêu Lê Mạnh Thát, lúc đó là Tri Sự chùa Linh Mụ, ngồi gần Ôn. Họ mời Ôn về Huế họp. Ôn từ chối nói đau không đi được. Họ nói có người đưa Ôn đi. Sau đó người ta gánh Ôn đi trên một chiếc võng, từ chùa Linh Mụ, không về Huế mà rẽ về Chợ Thông thuộc làng An Ninh Hạ, đến La Chữ. Ban ngày núp, nghỉ, ban đêm đi. Sau một tháng đến Seopon giáp giới Lào. Máy bay trực thăng bay trên đầu mà không bắn. Trên đường đi, thiếu lương thực, bị hạm đội Mỹ pháo kích. Nhiều người bị chết vì đói và sốt rét. (Được kể lại sau 1975). Rồi sau đó từ Huế ra Hà Nội mất hết 4 tháng, đi theo đường Mòn Hồ Chí Minh đến
30/12/2010(Xem: 5794)
Nguyễn Du (1765-1820) tự là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên, biệt hiệu Hồng Sơn Liệp Hộ, Nam Hải Điếu Đồ, sinh trưởng trong gia đình phong kiến quý tộc có nhiều danh vọng, quê gốc ở làng Tiên Điền, Nghi Xuân, Hà Tĩnh. Cha và anh của ông giữ những chức vụ quan trọng trong phủ chúa Trịnh. Thời trẻ ông tập ấm một chức quan võ nhỏ của cha nuôi họ Hà ở Thái Nguyên. Năm 1787, Tây Sơn ra Bắc diệt Trịnh, ông bắt đầu thời kỳ “Thập tải phong trần” (Mười năm gió bụi). Sau ông phục vụ nhà Nguyễn, làm đến Hữu Tham tri Bộ Lễ, từng được cử làm chánh sứ đi sứ Trung Quốc.
30/12/2010(Xem: 5587)
Viết về cụ Nguyễn Du mà chúng ta không nói đến lòng thương vô hạn của cụ đối với chính mình đối với tha nhân, đối với xã hội thì đó là một vấn đề thiếu sót; viết về Nguyễn Du mà không nói đến Phật giáo thì đó cũng là một thiếu sót quang trọng, vì toàn bộ sự nghiệp văn thơ của cụ đều phát xuất từ hai quan điểm này để từ đó cụ gởi gắm tâm sự của cụ lại cho người hậu thế.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]