Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hòa Thượng Thích Hộ Giác (1928 - 2012)

20/10/201921:00(Xem: 3578)
Hòa Thượng Thích Hộ Giác (1928 - 2012)

HT. Thich Ho Giac

Cố Đại Lão Hoà Thượng Thích Hộ Giác (1928 – 2012)


– Phó Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất.
– Tăng Thống Giáo Hội Tăng Già Nguyên Thủy Việt Nam.
– Nguyên Tổng Thư Ký Giáo Hội Tăng Già Nguyên Thủy Việt Nam.
– Nguyên Thành Viên Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo.
– Nguyên Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Cư Sỹ Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất.
– Nguyên Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Hoằng Pháp Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất.
– Nguyên Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Xã Hội Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất.
– Nguyên Phó Giám Đốc Nha Tuyên Úy Phật Giáo Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.
– Nguyên Tổng Thư Ký Hội Đồng Lãnh Đạo GHPGVNTN Hải Ngoại.
– Nguyên Chủ Tịch Văn Phòng II Viện Hoá Đạo GHPGVNTN Hải Ngoại Tại Hoa Kỳ.
– Nguyên Chủ Tịch Hội Đồng Điều Hành Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam Tại Hoa Kỳ.
– Viện chủ Tổ Đình (PHV) Pháp Quang; chùa Nam Tông; chùa Xá Lợi Phật Đài (Việt Nam).
– Viện chủ Pháp Luân Tự, tiểu bang Texas, Hoa Kỳ.

 

I/ TIỂU SỬ:

Cố Đại Lão Hòa Thượng Thích Hộ Giác, thế danh Ngô Bửu Đạt, sinh ngày 14-1-1928 tại Sa Đéc (nay là tỉnh Đồng Tháp, Việt Nam). Thân phụ ngài là cụ ông Ngô Bảo Hộ (Tức cố Đại Lão Hòa Thượng Thích Thiện Luật – vị đệ nhất cao tăng Phật Giáo Nguyên Thủy Việt Nam, sau nầy trở thành Phó Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất). Thân mẫu là cụ bà Lưu Kim Phùng.

Ngài sinh trưởng trong một gia đình thương nhân, gồm có hai chị em. Bào tỷ là cố tu nữ Diệu Đính (thế danh Lưu Kim Đính). Do phương kế làm ăn sinh sống, cả gia đình ngài qua Cam-pu-chia lập nghiệp tại tỉnh Praey-veng – tức Lò-veng hay làng Hoa Mỹ theo cách gọi của cộng đồng người Việt cư trú tại đó.

II/ XUẤT GIA TU HỌC:

Năm 1934, sau khi thân mẫu qua đời, thân phụ ngài gởi trưởng nữ là Lưu Kim Đính cho người em gái (cụ bà Ngô Thị Dần) nuôi dưỡng và dẫn ngài cùng đến chùa Prek-reng (Cần Ché) xuất gia tu học. Thân phụ ngài xuất gia thọ giới Sa-di, Pháp danh là Thiện Luật; còn ngài xuất gia làm giới tử học tập kinh luật.

Năm 1940 ngài được thọ giới Sa-di tại chùa Sri-Sagor và được Hòa Thượng tế độ ban Pháp danh là Hộ Giác (Buddha Pala).

Ngài vốn có thiên bẩm thông minh xuất chúng, chịu khó, chịu học, lại có dung mạo khôi ngôi tuấn tú nên rất được các bậc Giáo Thọ Sư thương mến, hết lòng truyền thụ sở học và được gởi vào trường Cao Đẳng Phạn Ngữ Pali tại thủ đô Pnom Penh, năm 1948 ngài thọ Giới Đàn (Tỳ khưu) tại trường này, sau đó ngài tốt nghiệp cao đẳng Phạn ngữ – Pali với hạng ưu. Kế đó ngài đi tu nghiệp thêm tại các xứ Miến Điện, Tích Lan để hoàn thành sở học, thành danh là một vị Tăng tài của Phật Giáo.

III/ ĐẠO NGHIỆP – CÔNG HẠNH:

Từ năm 1950 đến năm 1957, ngài thường theo Cố Đại Lão Hòa Thượng Thiện Luật vảng lai về nước trợ giúp chư tôn thạc đức Tăng-già trong Phật sự mở mang Phật Giáo Nguyên Thủy tại miền Nam nước Việt, nhất là tại Sài Gòn.

Năm 1954, ngài cùng phái đoàn Tăng-già Phật Giáo Nguyên Thủy Việt Nam tham dự Đại Hội Kết Tập Tam Tạng lần thứ VI tại thủ đô Ngưỡng Quang, Miến Điện (khai mạc vào dịp đại lễ Phật Đản, ngày 17 tháng 5 – Visàkha Day – Thời gian kết tập trải qua 2 năm, đến Phật Đản 1956, Phật lịch 2500 mới hoàn thành – Theo Phật Quang Đại Từ Điển, tr.5189). Nhờ thông tuệ 2 văn hệ Phạn ngữ và Pàli, ngài được tuyển thỉnh là một trong 2.500 thành viên chính thức dự phần nghe tuyên đọc kết tập Tam Tạng.

Năm 1957, sau nhiều năm du học ở xứ người, ngài trở về Việt Nam và khi Giáo Hội Tăng Già Nguyên Thủy Việt Nam thành lập, ngài được suy cử đảm nhiệm chức vụ Tổng Thư Ký đầu tiên của Giáo Hội.

Năm 1958, với sự ủng hộ của hãng dầu cù-là hiệu Mac-Phsu và chư tôn đức cao tăng cùng quý nam nữ Phật Tử, ngài cùng Đại Lão Hòa Thượng Thiện Luật kiến tạo ngôi Tam Bảo chùa Pháp Quang, và tại nơi đây, ngôi trường Phật Học đầu tiên của Giáo Hội Tăng Già Nguyên Thuỷ Việt Nam được thành lập có tên là Phât Học Viên Pháp Quang do ngài làm Viện Trưởng, chuyên đào tạo Học tăng qua 3 học vị: Sơ đẳng, Trung đẳng và Cao đẳng Phật Học theo truyền thống Phật Giáo Nguyên Thuỷ. Học vị do trường cấp cho Tăng Sinh tốt nghiệp được Hội Phật Giáo Thế Giới (ngành giáo dục) công nhận. Ngôi trường đã đào tạo nhiều bậc Tăng tài phục vụ sự nghiệp phát triển Phật Giáo Nguyên Thủy trong sự nghiệp hoằng dương chánh pháp. Các Hòa Thượng, Thượng Tọa hiện nay như: HT Pãnnõ, HT Tịnh Giác, HT Minh Giác, HT Thiện Nhân, TT Bửu Chánh, TT Giác Trí… đều xuất thân từ ngôi trường này.

Pháp nạn 1963 là một biến cố chấn động toàn thể Phật Giáo Đồ Việt Nam, ngài cùng Ban Chưởng Quản Giáo Hội Tăng Già Nguyên Thuỷ Việt Nam tham gia Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo, đấu tranh trong tinh thần bất bạo động cho sự bình đẳng, tự do tôn giáo đối với Phật Giáo đến khi thành công và cũng đã bị bắt cầm tù trong thời gian này như bao Tăng Ni dấn thân hộ đạo lúc bấy giờ.

Năm 1964, Phật Giáo được thống nhất tại miền Nam cùng các Hội Phật Giáo miền Bắc di cư lấy danh hiệu là Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất. Bản Hiến Chương đầu tiên của Phât Giáo Việt Nam ra đời. Ngài cùng chư tôn đức cao tăng Phật Giáo là một trong những thành viên sáng lập nên Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất. Trong tổ chức Giáo Hội thời bấy giờ, ngài đã liên tiếp đảm nhiệm các chức vụ: Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Xã Hội; Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Cư Sĩ; Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Hoằng Pháp… và vào thời điểm hình thành Nha Tuyên Úy Phật Giáo Quân Lực Việt Nam Cọng Hòa, ngài được suy cử vai trò Phó Giám Đốc (Giám Đốc Nha Tuyên Úy Phật Giáo lúc ấy là Thượng Tọa Thích Tâm Giác).

Với chí nguyện hoằng pháp độ sanh, với thiên tài sở học Phật pháp, ngài đã hoằng truyền làm tỏ rạng chánh pháp Nguyên Thủy khắp cả miền Nam nước Việt, làm cho mọi người biết nhiều hơn đến Phật Giáo  Nguyên Thuỷ (tức  Phật Giáo Nam Tông như tên gọi hiện tại). Đây là công đức lớn lao với Tăng, Tín đồ Phật Giáo Nam Tông ngày nay. Bên cạnh đó, với sở học xuất sắc Phạn ngữ – Pali, ngài đã trợ duyên cho Cố Đại Lão Hòa Thượng Thích Minh Châu, Viện Trưởng Viện Đại Học Vạn Hạnh (nay là Học Viện Phật Giáo TP.HCM) dịch thuật Đại Tạng Kinh Pali – Việt phổ biến đến khắp Tăng Ni, Phật Tử có nhu cầu nghiên cứu Phật học, quan trọng hơn nữa là hòa nhập với Phật Giáo các nước theo truyền thống Phật Giáo Nguyên Thuỷ.

Song song với Phật sự đào tạo Tăng tài, hoằng dương chánh pháp, Ngài đã kiến tạo ngôi chùa Nam Tông với ý nguyện thành lập Phân Viện Đại Học Phật Giáo Nam Tông thuộc Viện Đại Học Vạn Hạnh nhằm phát triển Phật Giáo Nam Tông tại nước nhà, sánh vai cùng các nước Phật Giáo Nam Tông trên thế giới.

Tuy đa đoan nhiều Phật sự, nhưng ngài cũng dành được thời gian biên soạn, trước tác với 27 tác phẩm đã sáng tác, dịch thuật; trong đó có 5 tác phẩm lớn chưa ấn hành. Một số kinh sách của ngài thường được nhắc đến là:

– Tình mẹ.
– Trúc Lâm dậy sóng.
– Tính đời ý đạo.
– Tình bạn.
– Thanh Văn sử.
– Cuộc đời và sự nghiệp Đại Đế A Dục Vương.
– v.v…

Năm 1981, nhận thấy tình hình nhiễu nhương của Phật Giáo Việt Nam qua việc bị thúc ép hình thành một Giáo Hội nữa ngoài ý muốn của đại đa số Tăng Ni, Phật Tử và của riêng cá nhân ngài, ngài quyết định rời khỏi Việt Nam bằng cách vượt biên giới qua ngã đường bộ Cam-pu-chia.

Năm 1982, ngài chính thức định cư tại Hoa Kỳ.

Một năm sau đó, ngài cùng với 8 vị nguyên thành viên của Hội Đồng Viện Hóa Đạo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất thành lập Hội Đồng Lãnh Đạo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại. Hội Đồng đã thỉnh cử ngài vào cương vị Tổng Thư Ký Hội Đồng.

Năm 1992, khâm tuân lời kêu gọi đức Đệ III Tăng Thống, ngài cùng đông đảo chư tôn đức và quý cư sĩ thành lập Uỷ Ban Vận Động và hình thành Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại Tại Hoa Kỳ. Không lâu sau đó, cơ cấu nầy được Đại Lão Hòa Thượng Đệ IV Tăng Thống Thích Huyền Quang ủy nhiệm vai trò Văn Phòng II Viện Hóa Đạo mà ngài là Chủ Tịch Hội Đồng Điều Hành cho đến khi ngài viên tịch.

Năm 2008, do sự thỉnh cầu của Hội Đồng Lưỡng Viện, đức Đệ IV Tăng Thống ban hành giáo chỉ suy cử ngài lên tôn vị Phó Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất.

Trong những năm định cư ở xứ người, ngài đã lên đường hoằng du nhằm nghiên cứu đồng thời cũng xiển dương chánh pháp tại nhiều nước: Hoa Kỳ, Pháp, Úc, Đức, Thụy Sĩ v.v… Ngài đã kiến tạo nên ngôi chùa Pháp Luân ở tiểu bang Texas, Hoa Kỳ. Ngài cũng là Tăng Thống Giáo Hội Tăng Già Nguyên Thủy Việt Nam đầu tiên tại Hoa Kỳ. Ngài là Bổn Sư; A-xà-lê; Giáo Thọ Sư biết bao Tăng chúng trong và ngoài nước với thiên tài Phật học xuất chúng và thông thạo ngoại ngữ qua 6 thứ tiếng của Ngài.

Là bậc cao tăng thạc đức nhưng với đức hạnh khiêm tốn; hòa nhã; tế nhị và sâu sắc, ngài luôn được Tăng Ni, Phật Tử trong và ngoài nước quý mến; kính trọng. Với tấm lòng cao cả, ngài luôn đùm bọc chở che, nâng đỡ đối với huynh đệ và hàng môn đồ đệ tử. Có thể nói, ngài là tấm gương sáng chói cho hàng hậu học noi bước trên đường đạo.

(Huệ Hương ST)


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
12/03/2011(Xem: 6052)
Phạm Công thiện, ông là ai? Có nhiều người đã hỏi như thế. Triết gia? Thiền sư? Thi sĩ? Văn sĩ? Hay là một người lang thang rong chơi trong cuộc đời ? Hay là nghệ sĩ với ước vọng thành một tài năng lớn của thế giới? Hoặc là một người đang trong cơn mộng du suốt cả đời? Trần Tuấn Kiệt trong một bài viết trong “Tác Giả Tác Phẩm“, xuất bản cách nay gần bốn chục năm, cũng nói về chân dung người thi sĩ rất mực nghệ sĩ này:
25/02/2011(Xem: 5919)
Lễ huý nhật Ôn Trí Thủ năm 2005 tại Quảng Hương Già Lam
19/02/2011(Xem: 4618)
Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Huyền Tôn, đệ tử của Đệ Lục Tổ Sư Thiên Ấn Tự, Hòa Thượng Tăng Cang Thích Chơn Trung, thế danh Nguyễn Thái Long, pháp danh Như Kế, pháp tự Giải Tích, pháp hiệu Huyền Tôn. Ngài sinh năm Mậu Thìn (1928.Việt lịch: 4807) tại làng Châu Nhai, Huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi, Việt Nam. Thân phụ, bán thế xuất gia là Đại Sư thượng Như hạ Quý (1874-1942), Thân mẫu là Cụ bà Thái Thị Túc, pháp danh Như Chỉnh, tự Giải Lý (1891-1945).
13/02/2011(Xem: 17044)
Ca Sĩ Gia Huy, Tên thật của Gia Huy là Đặng Quốc Hung. Anh đến Montreal, Canada vào năm 1991 để cùng đoàn tụ với gia đình. Anh hát lần đầu tiên tại vũ trường Chateau Du Parc tại Montreal. Lúc đó, anh hát với ban nhạc Phạm Mạnh Cường để trình bày những tác phẩm như "Máu Nhuộm Bãi Thượng Hải", "Mười Năm Tình Cũ" và "Lambada". Ngay sau lần trình diễn đầu tiên, Gia Huy trở thành một ấn tượng của dân chúng tại Montreal. Anh bắt đầu hát cho một số vũ trường tại địa phương như Bistro Dore, Miss Sai Gòn, và Đêm Sai Gòn. Tuy nhiên, mục đích của Gia Huy là nổi danh ngoài Canada và khuếch trương số khán thính giả đi khắp thế giới.
30/01/2011(Xem: 5091)
Hòa Thượng Thích Như Điển - Đệ Nhị Chủ Tịch Hội Đồng Điều Hành GHPGVNTN Âu Châu - Phương Trượng Chùa Viên Giác, Hannover, Đức Quốc
14/01/2011(Xem: 5217)
Hòa thượng họ Hồ Đắc, tên Cư, Pháp danh Tâm Thật, Pháp hiệu Thiện Châu, sinh ngày 23 tháng 2 năm 1931 tức ngày 7 tháng 1 năm Tân Mùi tại làng An Truyền, huyện Phú Vang, Tỉnh Thừa Thiên. Thân phụ Thầy là Cụ Hồ Đắc Phách, thân mẫu là Cụ Nguyễn Thị Cần. Thầy xuất gia năm 16 tuổi (1947) và thọ giới tỳ kheo năm 1952. Bổn sư của Thầy là Cố Đại Lão Hòa Thượng Thích Giác Nguyên, Viện chủ Tổ Đình Tây Thiên (Huế).
07/01/2011(Xem: 5692)
Ông vua đầu tiên của nhà Trần và cũng là một thiền sư cư sỹ, Trần Cảnh (Trần Thái Tông) (1218-1277) đã để lại một sự nghiệp chính trị, một dòng văn học bất hủ, đến bây giờ vẫn mãi là kim chỉ nam, ngọn đuốc soi đường trong đêm dài tăm tối, cho những ai tìm phương vượt thoát, lộ trình cho những ai muốn đưa dân tộc tìm tới đỉnh cao của nhân bản và an lạc.
05/01/2011(Xem: 4736)
Về việc Hòa Thượng Đôn Hậu lên núi, ra Bắc trong vụ Tết Mậu Thân được thầy Trí Tựu, Trú Trì chùa Linh Mụ thuật lại như sau: (lúc 12:00 giờ trưa, ngày 12-3-2009 tại chùa Linh Mụ) Vào khoảng quá nửa đêm tối Mồng một Tết Mậu Thân, có một phái đoàn gồm quân nhân và người mặc thường phục đến thăm Ôn. Ôn đang bị bệnh, bệnh suyễn và xuất huyết dạ dày. Thầy ngồi đàng xa. Thầy Trí Lưu, thân phụ của thầy Trí Siêu Lê Mạnh Thát, lúc đó là Tri Sự chùa Linh Mụ, ngồi gần Ôn. Họ mời Ôn về Huế họp. Ôn từ chối nói đau không đi được. Họ nói có người đưa Ôn đi. Sau đó người ta gánh Ôn đi trên một chiếc võng, từ chùa Linh Mụ, không về Huế mà rẽ về Chợ Thông thuộc làng An Ninh Hạ, đến La Chữ. Ban ngày núp, nghỉ, ban đêm đi. Sau một tháng đến Seopon giáp giới Lào. Máy bay trực thăng bay trên đầu mà không bắn. Trên đường đi, thiếu lương thực, bị hạm đội Mỹ pháo kích. Nhiều người bị chết vì đói và sốt rét. (Được kể lại sau 1975). Rồi sau đó từ Huế ra Hà Nội mất hết 4 tháng, đi theo đường Mòn Hồ Chí Minh đến
30/12/2010(Xem: 4668)
Nguyễn Du (1765-1820) tự là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên, biệt hiệu Hồng Sơn Liệp Hộ, Nam Hải Điếu Đồ, sinh trưởng trong gia đình phong kiến quý tộc có nhiều danh vọng, quê gốc ở làng Tiên Điền, Nghi Xuân, Hà Tĩnh. Cha và anh của ông giữ những chức vụ quan trọng trong phủ chúa Trịnh. Thời trẻ ông tập ấm một chức quan võ nhỏ của cha nuôi họ Hà ở Thái Nguyên. Năm 1787, Tây Sơn ra Bắc diệt Trịnh, ông bắt đầu thời kỳ “Thập tải phong trần” (Mười năm gió bụi). Sau ông phục vụ nhà Nguyễn, làm đến Hữu Tham tri Bộ Lễ, từng được cử làm chánh sứ đi sứ Trung Quốc.
30/12/2010(Xem: 4586)
Viết về cụ Nguyễn Du mà chúng ta không nói đến lòng thương vô hạn của cụ đối với chính mình đối với tha nhân, đối với xã hội thì đó là một vấn đề thiếu sót; viết về Nguyễn Du mà không nói đến Phật giáo thì đó cũng là một thiếu sót quang trọng, vì toàn bộ sự nghiệp văn thơ của cụ đều phát xuất từ hai quan điểm này để từ đó cụ gởi gắm tâm sự của cụ lại cho người hậu thế.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567