Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tiểu sử Trưởng lão Hòa Thượng Thích Minh Chiếu (1932 – 2020)

12/05/202007:48(Xem: 7387)
Tiểu sử Trưởng lão Hòa Thượng Thích Minh Chiếu (1932 – 2020)

ht thich minh chieu 3

Tiểu sử
Trưởng lão Hòa Thượng Thích Minh Chi
ếu

(1932 – 2020)


1. Thân thế
Ngài họ Thái húy Văn Sung, pháp danh thượng NGUYÊN hạ QUẢNG, tự MINH CHIẾU, hiệu HẢI ÂN, sinh ngày 05 tháng 03 Nhâm Thân (nhằm 10 – 4 – 1932) tại làng Vạn Xuân, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên – Huế.
Thân phụ Ngài họ Thái húy Văn Minh, bán thế xuất gia với Hòa thượng Thích Ngộ Chí, Trú trì Chùa Long sơn-Nha trang, được ban pháp danh thượng Trừng hạ Khánh, hiệu Từ Minh, đạo hiệu Thích Chánh Hóa, và đã kế thừa Bổn sư giữ chức vị Trú trì Chùa Long Sơn – Nha trang, nơi sau này trở thành cơ sở đào tạo Tăng tài cho Phật giáo miền Trung giai đoạn 1936-1957, với cái tên là Tăng học đường Trung Việt- Nha trang.
Thân mẫu là cụ bà họ Đoàn húy Thị Tuất. Gia đình có 5 người con, 2 trai 3 gái. Đứng đầu là người chị cả, còn Ngài là con trai lớn.
Năm 1942, sau khi Thân mẫu quá vãng, các chị em Ngài được đón vào Chùa Long Sơn - Nha Trang, theo học chương trình yếu lược tại trường Khánh Hòa. Tại đây Ngài gặp Hòa thượng Thích Chí Tín (kế thế Trú trì đời thứ 3 Chùa Long Sơn), kết làm thiện tri thức với nhau, tình thâm như thủ túc. 
Năm 17 tuổi (1949), Ngài được Hòa Thượng thượng Tâm hạ Thông hiệu Quảng Nhuận, Trú trì Tổ đình Từ Quang Huế, cho thế phát xuất gia tại Chùa Linh Quang - Đà Lạt, ban Pháp danh thượng Nguyên hạ Quảng, tự Minh Chiếu, cùng với các Sư huynh là các Ngài Thích Minh Cảnh (Chùa Linh Quang – Đà Lạt), Thích Minh Tánh (Chùa Nguyên Thỉ - Long An), Thích Minh Thể (Chùa Đạo Quang – Tam Kỳ Quảng Nam) và Sư đệ là Hòa thượng Thích Minh Tuấn (Bồ Đề Thiền Viện – Đà Nẵng).
Cũng năm này, Ngài theo học lớp Phật học tại Chùa Linh Sơn-Đà Lạt do Ngài Thích Thiện Minh mở và tuyển sinh từ các tỉnh Nam Trung bộ. Ngài nổi tiếng là thông minh xuất chúng, và được Bổn sư cho thọ giới Sa Di tại chùa Linh Sơn-Đà Lạt.
Năm 19 tuổi (1951), Ngài được Bổn sư cho ra Huế theo học tại Tăng Học Đường Báo Quốc-Huế. Một năm sau, chính tại Tổ đình này, Ngài được thọ cụ túc giới.
Đến năm 1954, Ngài tốt nghiệp Đại học Phật giáo tại Tăng Học Đường Báo Quốc-Huế, được ghi nhận là một trong những học trò xuất sắc của Hòa thượng Thích Trí Thủ, Giám viện Phật học viện Trung Phần, kiêm khai kiến Quảng Hương Già lam - Sài gòn.

2. THỜI KỲ HÀNH ĐẠO
Sau khi tốt nghiệp tại Tăng Học Đường Báo Quốc - Huế, năm 1956 Ngài được phân công về làm Chi Hội Trưởng Chi hội Phật giáo kiêm Giảng sư tại huyện Ninh Hòa tỉnh Khánh Hòa và Trú trì Tổ đình Thiên Phước - Ninh Hoà.
Cùng năm ấy, tại địa phương này, Ngài khai sơn Chùa Đức Hòa, rồi giao lại cho Hòa thượng Thích Viên Nhơn. Sau khi Hòa thượng Viên Nhơn viên tịch, đệ tử của Hòa thượng là Hòa thượng Thích Ngộ Tánh đã kế thừa làm Trú trì cho đến nay.
Năm 1959, theo nhu cầu mở thêm chi nhánh Phật học viện Trung Phần tại Đà Nẵng, Ngài được mời vê làm Phó Giám viện Phật học viện Phổ Đà - Đà Nẵng, kiêm Giảng sư tại tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng.
Trong pháp nạn năm Quý mão – 1963, Ngài cùng chư Tôn Đức tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng lãnh đạo phong trào tranh đấu bảo vệ đạo pháp của Tăng-Tín đồ Phật giáo tại tỉnh nhà.
Khi GHPGVNTN được thành lập năm 1964, Ngài được cung thỉnh làm Chánh đại diện GHPGVNTN tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng. Cũng năm này, Nha tuyên uý Phật giáo được thành lập, và Ngài được cung thỉnh làm Chánh sở Nha Tuyên Uý Phật giáo Vùng I Chiến Thuật cho đến năm 1966.
Sau pháp nạn 1963, thuận theo chủ trương của Giáo hội, Ngài vận động thành lập trường Trung học Bồ Đề - Đà Nẵng, làm cơ sở giáo dục phổ thông cho cả học chúng xuất gia và con em đồng bào Phật tử trong tỉnh. Để Phật sự được chu toàn tốt đẹp, Ngài đã mời Hòa thượng Thích Minh Tuấn từ Long An về làm Hiệu trưởng và mời Hòa thượng Thích Từ Mẫn, Giáo thọ Phật học viện Phổ Đà Đà Nẵng, làm Trưởng ban Quản Trị. Trường khai giảng vào năm 1964, hoạt động liên tục cho đến sau năm 1975 mới đình chỉ trong hoàn cảnh xã hội mới. 
Để tạo nền kinh tế tự túc cho Phật học viện Phổ Đà-Đà nẵng, năm 1964 Ngài đã khai khẩn một thửa đất rộng hơn 3 hét ta nằm bên bờ biển gần chân núi Sơn Trà để trồng dương liễu và rau củ quả, nhằm cung cấp chất đốt, thực phẩm, đồng thời làm nơi nghỉ dưỡng cuối tuần cho Tăng chúng Phật Học viện Phổ Đà.
Năm 1965 Ngài mở Trung tâm Từ Thiện – Xã Hội, gồm phòng khám Đông y - Châm cứu, quán cơm chay Bồ Đề Hoa Sen tại đường Ông Ích Khiên sát bến xe Chợ Cồn, khai khẩn một thửa đất khoảng hơn một ngàn mét vuông bên cạnh nhà thờ Tin lành ở Ngã Ba Cây Lan (trước công viên 29/3 ngày nay), một khu đất hàng chục mẫu ở Hoà Khánh có chiều dài hàng trăm mét chạy dọc quốc lộ 1A để xây dựng chùa Minh Phước, trường Tiểu học Bồ Đề Hòa Khánh v.v… Đây là những cơ sở kinh tế tạo nguồn tài chính tự túc phục vụ cho việc đào tạo Tăng tài của Phật Học viện Phổ Đà và tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng.
Năm 1965 Ngài thành lập Chùa Từ Tâm tại Trung tâm Y tế Toàn Khoa Đà Nẵng để có nơi cho Bệnh nhân lễ Phật, và mời Hòa thượng Thích Hạnh Đạo làm Trú trì. Đến năm 1976 Chùa bị giải thể.
Năm 1972 Ngài cùng Hòa thượng Thích Hạnh Đạo lập một trang trại tại Long thành Đồng Nai để ẩn tu. Đến 1975, khi cả hai Ngài đi học tập thì cơ sở này đã bị người quản lý sang nhượng cho người khác. Vì vậy năm 1981, học tập trở về, Ngài được Hòa thượng Thích Hạnh Đạo mời về tạm trú tại Chùa Hưng Long đường Ngô Gia Tự, Phường 4, Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh. Đến năm 1993 Hòa thượng Thích Hạnh Đạo đi định cư tại Hoa Kỳ, Hòa thượng dời về tạm trú  tại Chùa Phú Hòa của Hòa thượng Thích Mỹ Quang tại quận Tân Bình. Ba năm sau Ngài lại chuyển đến tạm trú tại Chùa Báo Ân phường 4 quận Tân Bình.
Xây dựng không biết bao nhiêu cơ sở, nhưng lòng Ngài chẳng có chút riêng tư, cuộc sống không ràng buộc một chỗ nào. Từ năm 1981 mặc dầu không có nơi tạm trú, không một giấy tờ tùy thân, nhưng với tinh thần “tiếp dẫn hậu lai báo Phật ân đức”, Ngài đã nhận lời mời về giảng dạy cho Tăng chúng tại các tự viện như Chùa Báo Ân (Tân Bình), Chùa Phật Ân (Long  Thành - Đồng Nai) v.v…
Đến năm 2000, được Hòa thượng Thích Minh Tâm, Viện chủ Chùa Phật Ân, cung thỉnh về an trú tại Chùa Phật Ân Long Thành – Đồng Nai, Ngài đã ẩn tu tại đây, dành hết thì gì để biên soạn giáo lý và dạy dỗ học chúng.
Năm 2005 Ngài được cung thỉnh làm thành viên Hội đồng Trưởng lão Viện Tăng Thống GHPGVNTN.
Năm 2012 Ngài được chư Tôn Đức của Tăng Già Bản Thệ cung thỉnh làm Đệ nhất Phó Thượng thủ Hội đồng Tăng Già Bản Thệ (GĐPTVN). Trên cương vị này, Ngài đã nhận làm Giáo thọ A xà lê cho Đại giới đàn Đức Nhuận tổ chức tại Chùa Bửu Lâm năm 2013, và Đại giới đàn Thiện Mình tại Chùa Phật Ân năm 2017.
Năm 2018 Hội đồng Tăng già Bản thệ tấn phong Ngài lên ngôi vị Thượng Thủ cho đến ngày viên tịch. 

3. BIÊN SOẠN GIÁO LÝ

Suốt cuộc đời hành đạo, dẫu phải đảm trách và chu toàn rất nhiều Phật sự trong các hoàn cảnh khác nhau, Hòa thượng vẫn dành thì giờ và tịnh tài để biên sọạn, rồi ấn tống các bộ sách giao lý, các bài giảng, dùng làm tư liệu tu học cho Tăng Ni Phật tử.  Ngay cả những năm tháng cuối đời, từ 2012, thân thể mang nhiều bịnh mãn tính, Ngài vẫn không xao lãng chí nguyện này. Hễ tích góp được chút ít tiền, Ngài lại ấn tống các bài giảng để cúng dường cho các trường Trung cấp Phật học và đồng bào Phật tử.
Những tác phẩm được Hòa thượng biên soạn từ những năm 1950 của thế kỷ trước đến nay gồm có:
I - Truyện:
-      Truyện cổ Phật giáo (gồm 295 truyện)
II - Nghi lễ:
-      Nghi Tiến Giác linh Việt văn
-      Nghi Tiến linh Việt văn
-      Văn tác bạch cúng dường…
-      Đạo từ…
III - Bài giảng:
-      Đạo Phật
-      Đạo Phật với Dân tộc
-      Đạo Phật với Đạo Đức
-      Vu lan – Hiếu
-      Tâm
-      Bố Thí
-      Trì Giới
-      Nhẫn Nhục
-      Tinh Tiến
-      Từ Bi
-      Sám Hối
-      Thiện Ác Nghiệp Báo
-      Luân Hồi
-      Vu lan Nhớ Mẹ
-      Vô Thường
-      Niệm Phật Cầu sanh Tịnh Độ
IV - Sưu tầm thơ:
-      Ngàn Năm Giọt nước có còn không (3 tập)
(mời xem những tác phẩm của HT Thích Minh Chiếu)


4. MÃN DUYÊN HÓA ĐỘ

Hiện thân giữa cuộc đời theo tinh thần của một “Thích Tử” thiền môn:
Nhứt bát thiên gia phạn,
Cô thân vạn lý du
Kỳ vi sanh tử sự
Giáo hóa độ xuân thu.

Mãn duyên hóa độ, Hòa thượng đã xả báo thân về cõi Phật lúc 14 giờ 50 ngày 15 tháng 04 năm Canh Tý, PL. 2564 (nhằm ngày 07.05.2020), trụ thế 89 tuổi, với 69 năm hạ lạp.   

Thế là, từ nay, Giáo hội đã mãi mãi mất đi một vị lãnh đạo đức độ và tài năng, Tăng Ni Phật tử mất đi một bóng đại thọ trong chốn Tòng lâm, và Môn đồ pháp quyến cũng mất đi một vị Tôn sư khả kính, giàu lòng từ bi.

Nam Mô Tự Lâm Tế Chánh Tôn Tứ Thập Tứ Thế thượng NGUYÊN hạ QUẢNG, tự MINH CHIẾU, hiệu HẢI ÂN, THÁI quý công Trưởng Lão Hòa Thượng Giác Linh Thùy Từ Chứng Giám.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
06/06/2012(Xem: 13546)
Hòa thượng Thích Quảng Đức, Pháp danh Thị Thủy, Pháp tự Hành Pháp và thế danh là Lâm văn Tức, sinh năm 1897 tại làng Hội Khánh, quận Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa...
30/05/2012(Xem: 7723)
Tín Nghĩa tôi đến định cư Hoa Kỳ vào ngày 19 tháng 09 năm 1979, do nhị vị Hòa thượng Thích Thiên Ân và Hòa thượng Thích Mãn Giác bảo lãnh từ trại tỵ nạn Hongkong. Ngồi tính sổ thời gian thì cũng đã gỡ gần ba chục cuốn lịch. Giá như thời gian này mà ở trong tù thì cũng mục xương và chẳng bao giờ được thấy ánh sáng của thiên nhiên.
27/05/2012(Xem: 18637)
Tác phẩm Trí Quang Tự Truyện bản pdf và bài viết "Đọc “Trí Quang Tự Truyện” của Thầy Thích Trí Quang" của Trần Bình Nam
15/05/2012(Xem: 5283)
Trong đạo lập thân của người xưa – lập công, lập đức, lập ngôn– thì lập ngôn thường được cho là quan trọng nhất, vì đó là phần “hình nhi thượng”, là tinh hoa tư tưởng cá biệt của một dòng đời mang tính truyền thừa lâu dài và sâu xa cho hậu thế. Người đem hết năng lực tinh thần và tri thức của đời mình để lập ngôn thì thành nhà tư tưởng, triết gia. Người đem chất liệu đời mình để viết lại thì thành tác giả tự truyện, hồi ký.
09/05/2012(Xem: 7352)
Sự xuất hiện của Tổ sư Liễu Quán (1667-1742) như là một Bồ tát bổ xứ, thực hiện sứ mệnh lịch sử: Không chỉ duy trì và phát triển mạch sống Phật giáo Việt Nam giữa bối cảnh xã hội tối tăm, Phật pháp suy đồi mà còn thể hiện sự xả thân vì đạo; lập thảo am, ăn rong, uống nước suối, hơn mười năm tham cứu công án, tu hành đắc đạo.
28/04/2012(Xem: 4393)
Nhà văn cư sĩ Huỳnh Trung Chánh, còn có bút hiệu Hư Thân, sanh năm 1939 tại Trà Vinh, quê nội của ông. Suốt quảng đời niên thiếu ông sống nơi quê ngoại tại Cao Lãnh, tỉnh Sa-Đéc, Nam Việt Nam. - Tốt nghiệp Cử nhân Luật Khoa( 1961 ), Đại Học Luật Khoa Saigon. - Tốt nghiệp Cử nhân Phật Học (1967), Phân Khoa Phật Học và Triết Học Đông Phương, Viện Đại Học Vạn Hạnh, Saigon. Là một công chức dưới thời Việt Nam Cộng Hoà, ông đã nổi tiếng thanh liêm, chánh trực và hết lòng dấn thân để phục vụ đại đa số dân chúng Việt Nam theo hạnh Bồ Tát của Phật giáo. Ông đã từng giữ các chức vụ sau đây: - Lục sự tại Toà Án Saigon và Long An (1960 – 1962). - Chuyên viên nghiên cứu tại Phủ Tổng Thống (1962 – 1964). - Thanh Tra Lao Động tại Bộ Lao Động (1964 – 1965). - Dự Thẩm tại Toà Sơ Thẩm An Giang (1965 - 1966). - Chánh Án tại Toà Sơ Thẩm Kiên Giang (1966 – 1969) và Toà Án Long An (1969 – 1971). - Dân Biểu Quốc Hội VNCH tại Thị Xả Rạch Giá (1
26/04/2012(Xem: 17232)
Mùa Phật Đản 1963, có máu, lửa, nước mắt và xương thịt của vô số người con Phật ngã xuống. Nhưng từ trong đó lại bùng lên ngọn lửa Bi Hùng Lực của Bồ Tát Thích Quảng Đức
20/04/2012(Xem: 8197)
Hòa thượng Thích Thiên Ân, thế danh Đoàn Văn An, sinh ngày 22 tháng 9 năm Ất Sửu 1925, tại làng An Truyền, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên. Thân phụ của Ngài là Đoàn Mễ, sau xuất gia là Thượng tọa Thích Tiêu Diêu một bậc tử đạo Vị pháp thiêu thân, thân mẫu là một tín nữ chuyên lo công quả ở chùa Báo Quốc và tu viện Quảng Hương Già Lam, Ngài là con trai thứ trong một gia đình có 4 anh em. Ngài xuất thân trong một gia đình thế gia vọng tộc, có truyền thống kính tin Phật pháp lâu đời. Nhờ duyên gần gũi Tam bảo từ thuở nhỏ, Ngài đã sớm mến cảnh thiền môn với tiếng kệ câu kinh, nên năm lên 10 tuổi (1935), Ngài theo bước phụ thân xin xuất gia đầu Phật tại chùa Báo Quốc, làm đệ tử của Hòa thượng Phước Hậu, được Bổn sư ban pháp danh là Thiên Ân, Ngài tinh tấn chấp tác, học tập thiền môn qui tắc, hầu cận sư trưởng. Năm Tân Tỵ 1941, khi được 16 tuổi, Ngài được Bổn sư cho thọ giới Sa di tại giới đàn chùa Quốc Ân – Huế, do Hòa thượng Đắc Quang làm Đường đầu truyền giới.
08/04/2012(Xem: 4681)
Hòa thượng thế danh Đoàn Thảo, sinh ngày 10 tháng Giêng năm Kỷ Dậu (1909), niên hiệu Duy Tân năm thứ 3 trong một gia đình nhiều đời theo Phật tại xứ Đồng Nà, tổng Phú Triêm Hạ, xã Thanh Hà, huyện Diên Phước, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam (Nay là thôn Đồng Nà, xã Cẩm Hà, thị xã Hội An, tỉnh Quảng Nam). Thân phụ là cụ ông Đoàn Văn Nhơn pháp danh Chơn Quang, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Có. Gia đình Ngài gần chùa Vạn Đức, lại thêm cụ thân sinh là tín đồ thuần thành của chùa, nên từ thuở nhỏ, Ngài thường theo cha đến chùa hàng đêm tụng kinh niệm Phật. Từ đó, chủng tử Bồ Đề lớn dần trong tâm và Ngài tỏ ra những biểu hiện rất có căn duyên với cửa Không môn của nhà Phật.
31/03/2012(Xem: 5455)
Hòa thượng thế danh Dương Đức Thanh, tự Liễu, pháp danh Như Nhàn, tự Giải Lạc, hiệu Trí Giác, nối pháp đời thứ 41 dòng Lâm Tế, thế hệ thứ 8 pháp phái Chúc Thánh. Ngài sinh năm Ất Mão (1915) tại làng Cẩm Văn, huyện Điện Bàn tỉnh Quảng Nam, trong một gia đình nhiều đời kính tín Tam Bảo. Thân phụ là cụ ông Dương Đức Giới pháp danh Chương Đồ, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Phụng pháp danh Chơn Loan. Năm lên 3 tuổi, thân phụ Ngài qua đời, thân mẫu tảo tần nuôi con và cho Ngài theo học chữ Nho với các cụ đồ trong làng, được 5 năm mới chuyển sang học Việt văn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567