Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đôi dòng hồi tưởng về Thầy

14/04/202011:44(Xem: 4294)
Đôi dòng hồi tưởng về Thầy

ĐÔI DÒNG

HỒI TƯỞNG VỀ THẦY…

Buổi sáng ngày 29/2 Canh Tý (nhằm ngày 22/3/2020), vào lúc 10g00 Con nhận được điện thoại của Thượng Toạ Giác Hiệp cho hay sư phụ bệnh nặng và chắc không qua khỏi… nên huynh đệ sắp xếp về gấp. Con nghe tin như sét đánh và không tin vào chính mình. Và để chắc chắn hơn, con gọi cho Sư cô Giác Tịnh nhưng điện thoại không liên lạc được và có điềm gì xấu đang xảy ra. Con liền gọi cho chị Cân hỏi thăm tình hình sức khoẻ sư phụ. Chị Cân cho biết sư phụ vừa mới mất nên quý thầy sắp xếp về lo đám tang sư phụ. Lúc này, con đã tin là sự thật và tim con đập run liên hồi và không còn đủ lý trí đặt vé máy bay để kịp về với sư phụ không?

Không khí sân bay ngày hôm nay khác lạ, không nhộn nhịp như những ngày vốn có của cảnh tiễn đưa “kẻ ở người đi” mà bao trùm không khí im lặng, thanh vắng, không ồn ào, không náo nhiệt… bởi lẽ do dịch Covid-19 đang xảy ra cướp đi hàng ngàn sinh mạng trên khắp thế giới hay là không khí buồn tang thương vì sự sống sinh tử vô thường, có sinh ắt có diệt. Trong thời gian ở sân bay Tân Sơn Nhất chờ đợi trở về với thầy, nhiều kỷ niệm về thầy bỗng ùa về trong tâm trí của con…

Con vẫn còn nhớ vào ngày 21 tháng 7 năm Giáp Tuất (nhằm ngày 27 tháng 8 năm 1994), là thời điểm ba anh em chúng con bao gồm Con, Hiếu và Hoảng xin phép gia đình cùng nhau đến chùa Bình An xuất gia tu học. Ngày đầu tiên, chúng con xa gia đình đến đảnh lễ thầy xin xuất gia tu học. Lúc đó; con vẫn nhớ hình dáng thầy chân chất của người nhà quê, thầy ngồi kiết già vững chãi trên chiếc ghế gỗ dài, bên cạnh là những cuốn sách nghiên cứu kinh-luật để trên bàn và giọng nói trầm ấm. Thầy ân cần hỏi tên từng đứa, hỏi bao nhiêu tuổi và thầy dạy bảo anh em chúng con rất nhiều vấn đề là cố gắng tu học tốt để sau này phụng sự đạo pháp… Giây phút ấy, con cảm nhận được năng lượng từ bi, tình yêu bao la thầy dành cho chúng con. Thời gian xuân hạ thu đông cứ thế trôi đi, năm tháng tương chao, rau muống, dưa cà… của chùa Bình An nuôi dưỡng huynh đệ chúng con khôn lớn từng ngày. Chùa Bình An lúc đó thiếu trước hụt sau, ngoài những tháng ngày ăn cơm với rau muống, rau lang… trò ăn gì thầy ăn đó. Thỉnh thoảng đến ngày rằm hay mồng một, quý Phật tử cúng cho miếng đậu hủ, chút dưa cà vào chùa để thay đổi thực đơn. Những năm tháng con sống ở chùa Bình An tuy không thiếu thốn, không khó khăn nhiều như những ngày quý sư huynh trước con đã ở; nhưng tấm lòng thương yêu thầy rất bao la. Thầy luôn luôn bên cạnh chăm sóc chúng con mỗi khi huynh đệ có ai bị ốm đau, có khi thầy nhắc nhở chúng con nếu lơ là việc tinh tấn tu tập mỗi ngày.


thich giac tho
Con còn nhớ, những buổi sáng sau giờ công phu khuya 4g00 sáng của đại chúng (lúc đó thầy đánh chuông đại hồng chung), thầy tiếp tục công phu hành trì kinh Lăng Nghiêm và trì tụng kinh Diệu Pháp Liên Hoa đến 6g00 sáng mỗi ngày. Trên chánh điện, thầy một mình công phu tu tập với tiếng mõ tụng kinh; ở dưới nhà bếp, chúng con lấy củi đun nước sôi chế bình thuỷ, nấu cháo tranh thủ đọc sách, học bài, học kinh kệ hay ôn lại những gì thầy đã dạy qua những câu chữ hán âm – nghĩa của bốn bộ luật, kinh Di Đà sớ sao… để kịp ngày mai lên lớp học thầy hỏi chúng con trả lời. Thầy là một tấm gương sáng không chỉ thực hành nghiêm túc trong tu tập mà còn dành nhiều thời gian tâm huyết đến sự nghiệp giáo dục Phật giáo, nhằm đào tạo nhân tài cho Phật giáo tỉnh Bình Định nói riêng và Giáo hội Phật giáo nói chung. Hằng ngày, hằng tuần cho dù thời gian sáng sớm hay chiều tối; trời nắng gắt khô hạn hay những cơn mưa dài ngày của đất miền Trung… thầy vẫn một mình chạy xe đến Trường Trung cấp Phật học Tu viện Nguyên Thiều đứng lớp giảng dạy. Mùa an cư kiết hạ, thầy ân cần đi giảng dạy cho tứ chúng hành giả an cư tại các trường hạ trong tỉnh Bình Định. Ngoài ra, thầy còn mở những lớp nho giáo dạy tại chùa Bình An nhằm trao kiến thức nội điển cũng như kinh nghiêm công phu tu tập của thầy đến các thế hệ tăng ni noi theo thầy về thân giáo và khẩu giáo.

Thời gian thấm thoát qua đi; huynh đệ chúng con dần dần cũng lớn lên theo năm tháng. Bao lớp học trò đệ tử được thầy đào tạo từ từ trưởng thành… và những người đệ tử của thầy tiếp tục đi du học nước ngoài như Ấn Độ, Đài Loan, Trung Quốc, Myanmar…; có người đệ tử vào TP.HCM, Khánh Hoà, Thừa Thiên Huế… tiếp tục đăng ký các lớp Phật học viện, hoặc có nhiều vị dấn thân con đường phục vụ chúng sinh, nhận chùa tiếp tăng độ chúng tu học… Và con cũng nằm trong số đó. Sau khi tốt nghiệp cấp 3, con từ giã thầy lên đường vào TP.HCM tiếp tục tu học và làm Phật sự. Con vẫn con nhớ ngày chia tay thầy; thầy ân cần, khuyên bảo, nhắn nhũ…con rất nhiều điều. Trước khi con lên xe đi vào TP.HCM, trong ánh mắt thầy đỏ hoe như gửi gắm và đặt nhiều niềm tin hy vọng vào con. Thầy giống như người cha, người mẹ luôn chăm lo cho những đứa con, lo lắng cho chúng con. Con cảm thất thật nhỏ bé trước tấm lòng từ bi, yêu thương và bao dung của thầy.

Trên thế gian này; tất cả các pháp duyên sinh đều giả tạm, con người và mọi thứ đều theo quy luật tự nhiên từ sinh đến lão tử. Mọi thứ dần dần thay đổi và tuổi tác con người cũng lớn dần theo năm tháng. Nay, thầy đã qua tuổi thất tuần với bao bệnh tật ốm đau của thân tứ đại. Dù thân thể đau nhức vì bệnh duyên, nhưng thầy vẫn luôn hỷ xả, bao dung và đặc biệt hằng ngày vẫn miệt mài, tận tâm với những lớp nho giáo truyền trao kiến thức đến các thế hệ tăng ni. Chúng con tuy đã học được giáo lý Vô thường nhưng đứng trước cuộc chia ly tử biệt làm sao tránh khỏi những điều bùi ngùi, chua xót. Hôm nay; duyên lành đã mãn, thầy đã ra đi mãi mãi nhưng những hình ảnh, lời dạy của thầy về thân giáo và khẩu giáo vẫn luôn hiện hũu trong dòng chảy tâm thức của những thế hệ đệ tử, học trò của thầy dưới mái chùa Bình An. Huynh đệ chúng con giờ đây đã vắng bóng tôn sư. Những lần huynh đệ chúng con ở xa về thăm thầy thì không còn được nghe âm vang lời dạy của thầy. Chúng con chỉ biết nhìn lên di ảnh và toà bảo tháp, thầy đã nằm yên nghỉ; lòng chúng con không khỏi xúc động, rơi lệ.

Giờ đây, âm thanh tiếng chuông chùa vẫn vang vọng, lời kinh tiếng kệ vẫn trang nghiêm… Huynh đệ chúng con sẽ an ủi động viên, nương tựa vào nhau cùng tu tập, cùng làm Phật sự để xứng đáng là hàng đệ tử của thầy. Huynh đệ chúng con cùng nhau cố gắng tiếp tục xây dựng và phát huy ngôi chùa Bình An ngày càng phát triển theo tâm nguyện của thầy và các bậc tiền bối Tổ sư đã để lại. Chúng con nguyện dấn thân tiếp tục con đường sự nghiệp giáo dục Phật giáo, tiếp tăng và độ chúng, phục vụ chúng sinh lợi đạo và ích đời…

Hôm nay nhân ngày tam thất trai tuần Hoà thượng tôn sư, con chỉ có đôi dòng bộc bạch trước giác linh thầy, nguyện cầu giác linh thầy từ bi chứng giám.

NAM MÔ TỪ LÂM TẾ CHÁNH TÔNG TỨ THẬP TAM THẾ, BÌNH AN TỰ ĐƯỜNG THƯỢNG, thượng ĐỒNG hạ CHƠN, hiệu MINH CHIẾU, tự THÔNG THIỆN Hòa thượng TÔN SƯ GIÁC LINH thùy từ minh chứng.

 

Quy Nhơn, ngày 11/04/2020

Đệ tử Thích Giác Thọ kính lễ

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/10/2014(Xem: 14903)
Nhân Vật Phật Giáo Thế Giới, do TT Thích Nguyên Tạng biên soạn từ 1990
01/10/2014(Xem: 8503)
Pháp danh : Trừng Thành Pháp tự : Chí Thông, Pháp hiệu : Thích Giác Tiên. Thuộc dòng Lâm Tế Chánh Tông đời thứ 42 Thế danh : Ngài họ Nguyễn Duy húy là Quyển. Thọ sanh năm Canh thìn, niên hiệu Tự Đức đời thứ 33 (1879). Chánh quán làng Giạ Lệ Thượng, xã Thủy Phương, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên. Năm 1883, lên bốn tuổi thì song thân đều mất. Ngài được ông bà bác đồng tộc đem về nuôi dưỡng. Nhờ bẩm chất thông minh nên thân thuộc cho theo Nho học một thời gian. Nhận thấy giáo lý Phật đà mới là con đường hướng đến cảnh giải thoát ; từ đó, ngài xin với thân thuộc xuất gia đầu Phật. Năm 1890, được 11 tuổi, ngài cầu thọ giáo với tổ Tâm Tịnh.
01/10/2014(Xem: 8598)
Phật Giáo Việt Nam thời cận đại đã viết lên trang lịch sử bằng máu, xương của Chư Tôn Đức Tăng Ni và Phật tử. Dòng lịch sử ấy đã nêu cao tấm gương hy sinh bất khuất trước những đàn áp, bạo lực, súng đạn, nhà tù và lựu đạn. Phải chăng đây là một chặng đường lịch sử oai hùng mà Phật Giáo Việt Nam đã biểu tỏ tinh thần Đại hùng, Đại lực, Đại Từ Bi để vực dậy một nền văn hóa đã bị sụp đổ bởi một chế độ tha hóa, ngoại lai xâm nhập vào quê hương Việt Nam.
01/10/2014(Xem: 10267)
Trên dòng lịch sử Phật giáo Việt Nam thời cận đại của những thập niên 30-40 có bậc Tôn túc của Ni giới xuất hiện, đồng hành với chư Tăng để xiển dương Phật pháp, đào tạo Tăng tài, xây dựng tự viện, giữ gìn giềng mối đạo pháp được bền vững. Bậc Tôn túc của Ni giới ấy là SB Diệu Không, người đã hy hiến cả đời mình cho đời lẫn đạo, SB đã lưu lại cho hậu thế một hành trạng sáng ngời cho đàn hậu học noi gương.
09/09/2014(Xem: 14183)
Hòa Thượng Thích Giác Thông, tục danh Đổ Văn Bé, sinh ngày 18 tháng 2 năm 1939 tại Mỹ Hòa Hưng, Huyện Châu Thành, An Giang, Long Xuyên. Trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân Phụ là Cụ Ông Đổ Nhựt Thăng, Thân Mẫu là Cụ Bà Nguyễn Thị Khiên, Hòa Thuợng là người anh cả trong số 6 anh em ( 3 trai, 3 gái ), được nuôi dưỡng trong một gia đình nông dân hiền lành, có truyền thống đạo đức, nên từ nhỏ Hòa Thượng đã là người sớm có tư chất hiền lương, có tâm thương người mến vật, là con có hiếu với ông bà cha mẹ.
06/09/2014(Xem: 8367)
Không biết đây là lá thư thứ mấy con đã viết mà không bao giờ gởi đi, bởi vì con biết thư có vượt ngàn dặm trùng dương bay về thì Thầy cũng vẫn không cầm đọc được, chứng bịnh Parkinson đã làm cho hai tay Thầy run nhiều quá nhưng nhân mùa Phật Đản nhớ đến Thầy, con lại muốn viết. Thời gian sau này, con vẫn theo dõi thường xuyên sức khỏe của Thầy, con buồn vô cùng, Thầy đã bị bịnh, không thoát khỏi qui luật sinh, lão, bịnh mà con thì ở xa quá, không thăm viếng cận kề Thầy được như ngày xưa nữa !
05/09/2014(Xem: 17334)
Còn đây của báu trong nhà Không là ngọc bảo, không là hoàng kim Bình thường chiếc áo tràng lam Mà sao quý vượt muôn ngàn ngọc châu! Những năm cầu thực dãi dầu Sớm mai tụng niệm, đêm thâu mật trì Dòng đời mãi cuốn con đi Về nương chốn tịnh có Thầy, có Ôn… Kinh truyền ban phát khuyên lơn
02/09/2014(Xem: 12073)
“Đầu lông trùm cả càn khôn thảy Hạt cải bao gồm nhật nguyệt trong” Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống. Sách Thiền Uyển Tập Anh (Anh Tú Vườn Thiền) ghi lại cuộc đối thoại giữa ngài với Thiền Sư Bản Tịch ở chùa Chúc Thánh, nhân dịp ngài cùng với thiền sư đến nhà đàn việt để thọ trai, trên đường đi sư hỏi: Thế nào là ý chỉ của Tổ Sư? Sao thầy lại nghe theo nhân gian làm những chuyện đồng cốt mê hoặc? Bản Tịch đáp: Lời nói ấy đâu phải là không do đồng cốt giáng thần? Sư thưa: Chẳng phải là Hòa Thượng đùa bỡn con hay sao? Bản Tịch đáp: Ta chẳng hề đùa bỡn tí nào! Sư không nắm được ý chỉ của thầy bèn cáo biệt ra đi.
12/08/2014(Xem: 16720)
Cô là 1 nữ sinh trẻ nhất của Sài Gòn đã anh dũng ngã xuống trước họng súng của quân thù tàn bạo trong 1 buổi sáng mùa thu năm 1963 trước cửa chợ Bến Thành, với hàng ngàn sinh viên, học sinh và nhân dân phật tử trước cửa chợ Bến Thành. Và ngay sau đó, Thành hội sinh viên học sinh Sài Gòn đã quyên góp vận động ủng hộ xây bức tượng thờ người nữ học sinh anh hùng tuổi 15 đặt ngay công trường Diên Hồng trước cửa chính chợ Bến Thành ngày nay với sự chứng kiến của hàng ngàn người dân, phật tử thành phố và sinh viên, học sinh.
09/08/2014(Xem: 12942)
Hòa thượng Họ Đinh, húy Văn Nam, là đệ tử của cố Đại lão Hòa thượng Thích Tịnh Khiết, Đệ nhất Tăng thống GHPGVNTN, pháp danh Tâm Trí, tự Minh Châu, pháp hiệu Viên Dung, sinh ngày 20 tháng 10 năm 1918 (Mậu Ngọ) tại làng Kim Thành (Quảng Nam); nguyên quán làng Kim Khê, xã Nghi Long, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Thân phụ là cụ ông Đinh Văn Chấp và thân mẫu là cụ bà Lê Thị Đạt. Gia đình Hòa thượng có 11 người anh em, Hòa thượng là con trai thứ tư trong gia đình. Vốn sinh trưởng trong gia đình vọng tộc Nho gia, thân sinh của Hòa thượng đỗ tiến sĩ Hoàng giáp năm 21 tuổi (khoa Quý Sửu 1913, niên hiệu Duy Tân thứ 7). Nhờ ảnh hưởng sâu đậm nền giáo dục của cụ ông từ bé, vì vậy Hòa thượng rất cần mẫn đèn sách, chăm chỉ học hành, trí tuệ phát triển sớm. Năm 1939, Hòa thượng đỗ bằng cao đẳng tiểu học Đông Dương; năm 1940 Hòa thượng đỗ tú tài toàn phần tại Trường Khải Định - Huế (nay là Trường Quốc Học); và cùng thời gian này, Ngài được bổ làm Thư ký Tòa Khâm sứ tỉnh Thừa Thiên. Sau một năm
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]