Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Kỷ Niệm Bên Thầy

10/04/202017:42(Xem: 2832)
Kỷ Niệm Bên Thầy

ht thich dong chon-27

Kỷ Niệm Bên Thầy


Thấm thoát mà thời gian đã trôi qua nhanh, mới đây thôi mà gần 49 ngày Thầy rời xa chúng coṇ. Cảm xúc nghẹn  ngào vẫn còn trong tim con, khó mà diễn tả được nỗi đau buồn này, nó cứ da diết mãi. Có lẽ con chưa chấp nhận sự thật là Thầy đã đi rồi. Con vẫn biết lời Thầy dặn dò lúc con mới xuất gia “Mọi sự mọi việc trên đời này luôn thay đổi, các pháp là vô thường. Cái chết là cái chắc chắn”. Các con hãy nỗ lực tiến tu để cảm thấy không bị vướng bận hay rằng buộc bất kỳ điều gì, dù đó là vui, buồn, hạnh phúc hay khổ đau. Rồi một ngày sự nỗ lực đó sẽ giúp con có được sự an nhiên, tự tại giữa Ta bà uế trược này. Con còn nhớ ngày chập chững bước chân vào chốn thiền môn, là khoảnh khắc đầu tiên con được nhìn và tiếp xúc với Thầy, với dáng hình giản dị của một Sơn Tăng mà trước giờ con cứ tưởng chỉ thấy trong các bộ phim, hay là huyền thoại cổ tícḥ. Một bậc Thầy đơn sơ, mộc mạc, ẩn chứa nội lực tu tập của vị Long Tượng chốn không môṇ. Từ cái nhìn ấy cho đến nay, con vẫn không thể nào quên được Thầy, biết bao nhiêu kỉ niệm, bao kí ức cứ dồi dạt ùa về khi đặt bút viết đôi dòng niệm ân Thầy.

Nhớ lại thuở xưa, khi còn là thị giả bên Thầy, có những lúc con hồn nhiên vô tư quên đi những lời căn dặn, để rồi bị Thầy la trách và bắt phạṭ. Khi ấy, trong tâm con cảm thấy buồn và tự nghĩ sao Thầy không thương mình, rất nhiều suy nghĩ hiện lên trong con, bởi lúc đó con còn quá trẻ, suy nghĩ có lúc nông cạn và không hiểu biết hết sự yêu thương của Thầy. Hằng ngày, Thầy luôn dạy huynh đệ chúng con nhiều điều, từ cách đi, đứng, nằm, ngồi, cách ứng xử và kể cả cách học kinh luật để hành trì… Bao nhiêu điều tốt Thầy truyền dạy cho chúng con, Thầy biết rằng: “Thân sanh là giả tạm, rồi một ngày Thầy phải rời xa chúng con, sợ chúng con chưa đủ hành trang để tiến tu và cả bước nhập thế cứu đời”. Vì thế, Thầy dày công, Thầy cố gắng dạy rất nhiều, dạy chi tiết từ thân giáo và khẩu giáo. Cho đến bây giờ, lời dạy ấy vẫn in sâu và trong tâm thức con. Thầy nói: “Tụi con còn nhỏ, cần phải học thật nhiều, đừng chạy theo thú vui bên ngoài để rồi đánh mất lý tưởng xuất gia. Người xuất gia cần phải nỗ lực học Phật và hành trì giáo Pháp chân chính, để tăng trưởng đạo tâm vững mạnh, sau này với ý chí kiên cường, với nội tâm có tu tập, các con sẽ tự tin đứng vững trong xã hội đầy cám dỗ, sẽ vượt qua nhiều thử thách chông gai trong sự nghiệp hoằng truyền giáo Pháp, sẽ là người kế thừa Như Lai hay kế thừa sự nghiệp tiếp dẫn hậu lai báo Phật ân đức, của Thầy Tổ, các con nhớ rõ chứ”. Từ bài học đó, con luôn tâm niệm rằng đó sẽ mãi là kim chỉ nam cho con trên bước đường tu học từ đây cho đến mãi về sau.

Những lời Thầy dạy tuy đơn sơ, nhưng hàm chứa một triết lý của đạo Phật, giúp con có thêm nguồn năng lượng để cố gắng vượt thoát sự cám dỗ và đi đúng với con đường giải thoát mà chư Tổ đã đi qua. Kể từ ngày hôm ấy, Thầy giống như là ánh sáng trong con, luôn soi đường chỉ lối cho con, trong những lúc con bất chợt yếu mềm, thoái chí, cũng chính là Thầy đã luôn hiện hữu trong con dẫn con vượt qua trăm cuộc gian truân cuộc đời. Con nghĩ rằng: “Con là sự tiếp nối của Thầy, Thầy luôn hiện hữu trong con dẫu thân ngũ uẩn của Thầy đã không còn, nhưng chính lời dạy của Thầy vẫn luôn hằng sâu trong con mãi mãi”. Khi con rời xa Thầy để đi học Phật, mong muốn tương lai sẽ tiếp bước chân Thầy, nhưng nào đâu lại nghe tin Thầy bệnh phải nhập viện, tâm lý lúc đó con hoang man và lo lắng. Ấy vậy mà, chưa kịp về bên cạnh chăm sóc Thầy mà Thầy đã vội rời xa. Tin này càng làm con thêm chùng bước về con đường phía trước, nỗi buồn cứ luôn dày xé trái tim coṇ. Cái ngày cuối đời của Thầy mà con cũng không về bên cạnh Thầy được bởi vì thế giới đang gồng mình chống chọi với đại dịch Covid-19 và phong tỏa các chuyến bay nên con không có cơ hội bên Thầy lần sau cuối. Từ phương xa chỉ biết hướng tâm về Thầy, cầu nguyện cho Thầy an nhiên mà dời gót. Con biết chắc rằng với đạo tâm tu tập cả một đời của Thầy, Người sẽ an nhiên xả bỏ báo thân này, dự hàng Thánh chúng cõi Liên Hoa, tùy duyên hạnh nguyện hóa độ. Mong rằng Thầy thương tưởng chúng sanh còn chìm đắm trong u tối, phát hạnh nguyện hội nhập Ta bà để giúp chúng sanh thoát khổ ải sanh tử, đến bờ giải thoát an vui.

        Con hiểu rất rõ ngôn ngữ chỉ là thứ tạm bợ, làm sao mà diễn tả hết công ơn lớn lao của Thầy. Nhưng vì lòng thương nhớ bậc ân sư, xin phép cho con dùng chút ít ngôn ngữ để bày tỏ về bậc Thầy khả kính của chúng con. Kỉ niệm của con về Thầy rất nhiều, nhưng làm sao kể hết được Thầy ơi! Hai tiếng Thầy ơi! Mà tâm con trẻ như chết lặng giữa đêm khuya nơi xứ lạ quê người. Hai tiếng Thầy ơi! Chưa kịp nói lên mà Thầy đã vội ra đi, sẽ không còn cơ hội để bày tỏ, nhưng con sẽ giữ mãi những kỉ niệm đó cho riêng con về một người Thầy mà con hết mực tôn kínḥ. Đôi dòng kỉ niệm bên cạnh Thầy giờ sẽ gửi nó theo muôn ngàn gió mây mong rằng nó sẽ mang theo sự hồi ức của con về Thầy đến một nơi yên bình và hạnh phúc nhấṭ. Đây là kỉ niệm khó quên và chắc sẽ không bao giờ con quên được lời dạy của Thầy năm nào, từ thuở sơ cơ xuất gia của con.

 -Yangon, Kỉ niệm bên Thầy!-
0h00’, 8/4/2020 (16/3 Canh Tý)
Hiếu tử Thích Vạn Hy
Đầu thành khấp lễ

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/04/2013(Xem: 6717)
Đại lão hòa thượng Thích Trí Nhãn thế danh là Đoàn Thảo, pháp danh Như Truyện, tự Giải Lệ, hiệu Thích Trí Nhãn. Ngài sinh ngày 10 tháng giêng năm Kỷ Dậu tức vào năm 1909 dương lịch, tại xứ Đồng Nà, tổng Phú Triêm Hạ, Xã Thanh Hà, nay thuộc thôn Đồng Nà, xã Cẩm Hà, Thị Xã Hội An.
09/04/2013(Xem: 14106)
Xuất thân trong một gia đình gia giáo có thân phụ là Chánh Tổng nên Hòa Thượng đã sớm hấp thụ Nho học và Tây học từ thuở ấu niên. Vì thế, Hòa Thượng đã thông thạo cả Hán văn lẫn Pháp văn, kết hợp và dung hòa được cả hai truyền thống văn hóa Đông – Tây.
09/04/2013(Xem: 10737)
Hòa Thượng thượng Tâm hạ Thành. Thế danh là Nguyễn Ðức Huân sinh năm 1930 tại làng Trà Bắc, Phủ Xuân Trường, Tỉnh Nam Ðịnh, Miền Bắc Việt Nam. Năm 1942 khi vừa tròn 12 tuổi, Ngài ngộ lý vô thường và xuất gia học đạo với Sư Tổ Thượng Chính Hạ Ðĩnh tại chùa Yên Cư, Phủ Xuân Trường, Thuc Sơn Môn Trà Bắc. (Sơn môn Trà Bắc, Trà Trung và Trà Ðông thuc Tổng Trà Lũ, là hậu thân của Sơn môn Yên Tử). Ngài được Bổn Sư ban Pháp danh là Ngọc Tiểu Pháp hiệu Tâm Thành.
09/04/2013(Xem: 8071)
Mỗi lần đi Huế lòng tôi lại nao nao khôn tả. Huế là đạo, là thơ, là nghĩa tình ý vị, là tinh hoa văn hóa của ba miền đất Việt, nhưng cũng là mảnh đất khô cằn của đói nghèo khốn khổ “mùa đông thiếu áo mùa hè thiếu cơm” đã hứng chịu nhiều thiên tai nhân họa. Huế được phong phú về mặt văn hóa, tâm linh là nhờ hình ảnh những vị đại lão hòa thượng nơi đây đã sống, hành đạo và xả báo thân. Dù đã viên tịch, dư hương các ngài vẫn như còn phảng phất nơi các ngôi tổ đình tĩnh lặng và những rừng thông bạt ngàn.
09/04/2013(Xem: 5941)
Giờ phút Thầy an nhiên xả báo thân, thì bên này hơn nữa đêm. Một Phật tử của Thầy ở miền Đông nước Mỹ, giọng đầm đìa nước mắt, khấp báo cho tôi tin Thầy đã từ biệt, lệ tiếc thương như tràn ngập, khắp đó khấp đây. Rồi Tuệ Sỹ, một hậu tấn, kẻ đồng tâm dễ thương của Thầy, mà tôi thường ví như một hạt kim cương hiếm hoi lẫn trong đá sỏi của Phật Giáo Việt Nam ngày nay, trong nổi cô quạnh bao la vừa sau một mất mát lớn lao đã ai tín cho tôi bằng lá thư không niêm mà tôi biết mỗi chữ cũng trĩu nặng nổi lòng.
09/04/2013(Xem: 2562)
Cho phép con thành tâm kính cẩn chia buồn với quí ngài về nỗi mất mát lớn lao không sao tìm lại được. Ðối với kẻ hậu học, làm sao con không khỏi bồi hồi, luyến tiếc khi hay tin sự ra đi của cố Hoà thượng Thích Ðức Nhuận, người đã hiến trọn đời mình cho đạo pháp và dân tộc. Trong giờ phút này, nơi phương xa, một người đệ tử đã có nhân duyên muộn hầu cận, học hỏi nơi cố Hoà thượng khi còn ở Việt Nam, xin đảnh lễ chư tôn đức trong Tổ đình và xin quí ngài cho con có đôi lời bộc bạch với giác linh của cố Hoà thượng. Ngưỡng bạch giác linh Hoà thượng chứng giám.
09/04/2013(Xem: 5525)
Hòa Thượng Thích Thiện Trì thế danh Nguyễn Văn Hiến, Pháp danh Như Phụng, Pháp tự Thiện Trì, Pháp hiệu Ấn Ðạo thuộc dòng Lâm Tế Chánh Tông đời thứ bốn mươi hai, Ngài sanh ngày 19 tháng 02 năm 1934 tại xã Nhơn Khánh, quận An Nhơn, tỉnh Bình Ðịnh. Ngài xuất thân từ một gia đình thuần túy Phật Giáo, thân phụ của Ngài là cụ ông Nguyễn Hàn, Pháp danh Như Ðà. Thân mẫu của Ngài là cụ bà Bùi Thị Thiệp, Pháp danh Như Cảnh. Ngài có tất cả 10 anh em, 5 trai và năm gái.
09/04/2013(Xem: 16676)
Để ghi lại những công –tác Hoằng-pháp và Giáo-dục trong niên-khóa vừa qua, chúng tôi đã thuyết-pháp và giảng-giải các lớp ở Ấn-Quang cho hàng Phật-Tử tại gia, cũng như tại Viện Đại Học Vạn-Hạnh cho sinh-viên Phật-khoa năm thứ IV (73-74) về môn các tác phẩm Trung-Hoa. Và cũng thể theo lời yêu cầu của đa-số Phật-tử muốn có tài-liệu để học-tập và nghiên-cứu, nên chúng tôi gom góp các bài đã biên-soạn, đúc kết thành một tập sách với nhan đề: “GƯƠNG SÁNG NGƯỜI XƯA”.
09/04/2013(Xem: 9126)
hế danh của Sư Bà cũng chính là Ðạo Hiệu hiện tại. Song Thân khó nuôi con, nên lúc 2 tuổi hai Cụ đã đem vào chùa cúng cho Sư Bà Ðàm Soạn, Trú trì chùa Cự Ðà và được Sư Cụ đặt tên là Ðàm Lựu. Phụ thân của Sư Bà là Cụ Ông Ðặng Văn Cán và Mẫu thân là Cụ Bà Nguyễn Thị Cả. Sư Bà sanh vào ngày 13 tháng 6 năm Quý Dậu, 4.811 Quốc Lịch; nhằm ngày 04 tháng 08 năm 1933 Tây lịch; tại làng Tam Xá, xã Thanh Oai, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Ðông, Bắc Việt Nam.
09/04/2013(Xem: 4643)
Hòa Thượng Thích Như Điển, thế danh Lê Cường, Pháp tự: Giải Minh, Pháp hiệu: Trí Tâm, sinh ngày 28 tháng 6 năm 1949 tại xã Xuyên Mỹ, quận Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam, Việt Nam. Học lực: Cử nhân giáo dục và Cao học Phật giáo tại Nhật Bản. Gia cảnh: Con út trong số 8 người con gồm 5 trai và 3 gái; Thân phụ: Ông Lê Quyên, pd: Thị Tế, Thân mẫu: Bà Hồ thị Khéo, pd: Thị Sắc. Người anh thứ bảy đã xuất gia đầu Phật năm 1958 tại chùa Non Nước, Đà Nẵng. Hiện là Hòa Thượng Thích Bảo Lạc, Hội Chủ Giáo Hội PGVNTN Hải Ngoại tại UĐL-TTL, Phương Trượng Tự Viện Pháp Bảo tại Sydney, Úc Đại Lợi.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567