Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hòa thượng Thích Quảng Độ (1928 - 2020): Chân tu và trí thức

26/02/202007:47(Xem: 4665)
Hòa thượng Thích Quảng Độ (1928 - 2020): Chân tu và trí thức

Hòa thượng Thích Quảng Độ (1928 - 2020): Chân tu và trí thức

February 24, 2020

 

Phải dành một ngày quên đi chuyện covid-19 để tưởng nhớ đến một người rất quan trọng: Hòa thượng Thích Quảng Độ (1). Thầy mới qua đời ở chùa Từ Hiếu (Sài Gòn) hôm thứ Bảy 22/2/2020, thọ 93 tuổi. Vậy là thêm một học giả lừng danh của thế hệ vàng Phật Giáo Việt Nam đã về bên kia thế giới. Cuộc đời và sự nghiệp Phật học của Thầy Quảng Độ có thể gói gọn trong 2 chữ: cống hiến và đấu tranh. Cống hiến trong vai trò một bậc chân tu, và đấu tranh bất bạo động trong vai trò của một trí thức dấn thân.

 
ht quang do 3

  

Hai hoà thuợng nổi danh cùng thời về cõi vĩnh hằng, nhưng phản ứng của báo chí (và Nhà nước) thì rất khác. Năm ngoái, khi Hòa thượng Thích Trí Quang qua đời, báo chí Nhà nước đồng loạt đưa tin, kèm theo những bài viết phân ưu đặc sắc. Năm nay, khi Hoà thượng Thích Quảng Độ viên tịch, chẳng có báo chí Nhà nước nào đưa tin! Thật ra, báo Tuổi Trẻ có đưa tin, thế nhưng chẳng hiểu vì sao mà bản tin và bài viết đã bị rút khỏi mạng trực tuyến. Thái độ ứng xử của báo chí (hay đúng hơn là của Nhà nước) làm cho người quan sát phải tự hỏi: tại sao. Lí do sâu xa có lẽ liên quan đến cuộc đời và sự nghiệp của hai vị hoà thượng rất ư khác nhau.

 

Có lẽ nói không ngoa rằng Hoà thượng Trí Quang có nhiều hoạt động được nhà cầm quyền đương thời có cảm tình, có khi cả ưu ái. Nhưng Hoà thượng Quảng Độ thì hình như không được nhà cầm quyền có cảm tình. Mỗi người một cách và đóng góp. Tôi thì nghĩ cuộc đời và sự nghiệp của Thầy có thể tóm lược trong hai chữ: cống hiến và đấu tranh. Cống hiến cho Phật học như là một học giả và đấu tranh cho sự độc lập của Phật giáo như là một trí thức dấn thân. 

 

Đóng góp cho Phật học

 

Một hôm, chừng 10 năm trước, tôi lang thang ở khu bán sách cũ trên đường Cộng Hòa cũ thì 'gặp' Hòa thượng Thích Quảng Độ. Tôi miên man đọc cuốn sách 'Đại thừa Phật giáo tư tưởng luận', lật lại trang đầu thì thấy tên dịch giả 'Thích Quảng Độ'! Và, nhà xuất bản Lá Bối. Tôi thầm thán phục Thầy. Hồi nào đến giờ tôi chỉ biết Thầy là người đấu tranh cho Phật giáo, chớ chưa biết ông còn là một học giả. Thấy tôi có vẻ say sưa với cuốn sách, chị chủ tiệm sách nhìn tôi với ánh mắt thân thiện và hỏi 'Anh mua cuốn đó hông, tui bớt giá cho. Sách loại này giờ hiếm lắm.' Mà, hiếm thật, vì sách xuất bản từ trước 1975 thì hoặc là đã bị thiêu đốt hoặc cấm lưu truyền hoặc in lại nhỏ giọt. Dĩ nhiên là tôi mua sách và trả y giá. Chẳng những mua cuốn đó, tôi còn 'tậu' luôn cuốn 'Truyện cổ Phật giáo' và 'Dưới mái chùa hoang' cũng qua biên giải của Thầy Quảng Độ. Thế là cái tên của thầy trở thành 'radar' ngưỡng mộ của tôi.

 

 Cuốn 'Đại thừa Phật Giáo tư tưởng luận' do Hòa thượng Quảng Độ biên dịch. 

  

Trước 1975, Thầy Quảng Độ nổi tiếng là một hoà thượng - học giả. Thầy từng được bầu làm Tổng thư kí Viện Hoá Đạo (của Giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhứt) vào năm 1965. Thầy cũng từng là giảng viên môn Triết học Đông Phương và Tư tưởng Phật Giáo ở Đại học Vạn Hạnh (nay không còn nữa). Thời đó, ĐH Vạn Hạnh, đại học tư thục đầu tiên của miền Nam, qui tụ nhiều học giả nổi tiếng (ngoài Thầy Quảng Độ) còn có những người như Thích Nhất Hạnh, Thích Minh Châu, Lê Mạnh Thát (Thích Trí Siêu), Thích Nữ Trí Hải, Hồ Hữu Tường, và Đoàn Viết Hoạt. Tuy tồn tại chỉ trên dưới 10 năm (1964 - 1975), nhưng ĐH Vạn Hạnh đã có những đóng góp quan trọng cho văn hoá - giáo dục miền Nam. Ban Tu Thư của ĐH Vạn Hạnh đã có công biên dịch nhiều sách quan trọng về Phật Giáo, trong đó có những tác phẩm của Thầy Quảng Độ.

 

Có thể xếp Hoà thượng Thích Quảng Độ trong nhóm các học giả Phật Giáo trong thời 'vàng son' như Thích Minh Châu, Thích Huyền Quang, Thích Trí Siêu, Thích Tuệ Sỹ. Đó là một thế hệ học giả có thực học và thực tài, uyên bác, và đã để lại những công trình học thuật có giá trị cho tới ngày nay. Một trong những tác phẩm Thầy Quảng Độ để lại cho đời là bộ sách "Phật Quang Đại Từ điển" gồm 9 tập với hàng vạn trang sách, được xuất bản năm 2014.

 

Bộ sách "Phật Quang Đại Từ điển" do Hòa thượng Quảng Độ biên dịch, xuất bản năm 2014 

 

Bộ sách "Phật Quang Đại Từ điển" có một lịch sử li kì, vì được viết trong nhà tù, nhưng biên soạn lại sau khi ra tù. Trong một cuộc trả lời phỏng vấn của RFA, Thầy Quảng Độ tiết lộ rằng năm 1995 trước khi vào tù, Thầy có yêu cầu quản giáo cho thầy tiếp tục soạn bộ Phật Quang từ điển trong nhà tù Ba Sao (ngoài Bắc). Nhưng thay vì đem bộ từ điển vào tù để dịch, quản giáo chỉ cho Thầy ... giấy trắng. Thầy kể:

 

"Giấy mỗi lần họ phát cho mình một tập, họ đánh số vào đó mỗi một tập 80 trang. Thế rồi họ phát cho một cây bút. Thế rồi họ đề ngoài cái trang bìa ngoài cùng là ông cán bộ nào mà trực nhật ngày đó. Thế hết tập đó thì mình mới trả để họ giao tập mới, Bút cũng thế, viết hết mực thì phải trả quản bút hết mực cho họ, họ mới cho bút mới. Đấy, họ kiểm soát như thế đấy.Kiểm soát thế cũng tốt bởi vì tôi có công việc làm."

 

Trong điều kiện nhà tù như vậy mà Thầy cho ra một bộ từ điển cả cả chục ngàn trang! Sức làm việc và trí tuệ thuộc hạng siêu. Đến ngày 2/9/1998, Thầy được trả tự do, nhưng bộ từ điển Thầy biên dịch thì ban quản giáo nhà tù giữ lại; họ yêu cầu Thầy phải làm đơn xin, nhưng Thầy nói không, vì cho rằng thật vô lí khi mình đi xin cái của mình! Thế rồi, sau khi ra tù, Thầy soạn lại bộ từ điển. Thầy thuật lại rằng:

 

"Tôi về tôi bỏ ra 2 năm trời tôi làm lại, tôi không xin ai hết. Xin nó phải hợp lý cơ. Như mình đói mình đi xin ăn, người ta cho, mình cảm ơn. Còn ở đây là của mình mà họ giữ chứ mình có gửi đâu!"

 

Tính chung, Thầy Quảng Độ đã biên dịch 13 bộ/quyển sách về Phật Giáo. Ngoài ra, Thầy còn để lại 2 tập thơ viết trong tù và lưu đày.

 

Đấu tranh cho Phật giáo

 

Sau 1975, một số học giả / tu sĩ Phật Giáo lừng danh đều có chung số phận: đi tù. Họ đi tù vì đấu tranh cho một hệ Phật Giáo độc lập với Nhà nước. Trước năm 1975, Giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhứt (GHPGVNTN) là tổ chức hoằng pháp có uy tín vì qui tụ những học giả nổi tiếng và có những hoạt động tôn giáo - xã hội tích cực (như ĐH Vạn Hạnh và các trung tâm giáo dục, đoàn thể xã hội). Sau 1985, nhà cầm quyền muốn GHPGVNTN phải nhập với Giáo hội Phật giáo Việt Nam (không có chữ 'thống nhứt') dưới sự quản lí của Nhà nước. Nhưng các thầy trong GHPGVNTN không chấp nhận chủ trương đó. Họ phải trả giá tù đày cho sự phản kháng đó.

 

Thầy Tuệ Sỹ và thầy Trí Siêu từng bị bắt và tuyên án tử hình vào năm 1984. Nhưng sau khi được chánh phủ một số quốc gia Âu Mĩ can thiệp, hai thầy được trả tự do ngày 31/8/1998 (sau 14 năn bị giam trong nhà tù). Cá nhân tôi dù chưa một lần hạnh ngộ, nhưng rất ngưỡng mộ hai thầy vì kiến văn cũng như Phật học, và càng kính trọng hơn về nhân cách bình thản trước bản án tử hình. 

 

Thầy Quảng Độ cũng đi tù, thậm chí còn bị tù đày dài hơn các học giả khác. Năm 1977, Thầy  bị bắt giam vì không chấp nhận sự kiểm soát của Nhà nước đối với giáo sự Phật giáo. Năm 1982 Thầy và mẹ bị đày về Thái Bình, mãi đến 1992 Thầy vào Nam. Vào Nam, năm 1995, Thầy Quảng Độ lại bị bắt và tuyên án phạt 5 năm tù giam và 5 năm quản chế tại gia, nhưng đến năm 1998 thì được đặc xá. Theo RFA, một trong những điều kiện Thầy Quảng Độ được đặc xá là Thầy phải đi Mĩ, nhưng Thầy nhứt định không đi. Năm 2018 Thầy lại bị buộc phải về Thái Bình, nhưng trong cùng năm Thầy lại quay về Sài Gòn và trú ngụ tại chùa Từ Hiếu cho đến ngày qua đời. Có thể nói cuộc đời của Thầy Quảng Độ sau 1975 là rất ư 'sóng gió' trong việc đòi sự độc lập cho Phật Giáo Việt Nam.

 

Phật giáo thế hệ 'vàng' và Phật giáo ngày nay 

 

Thầy Quảng Độ là thuộc thế hệ vàng của Phật giáo Việt Nam. Thế hệ đó góp phần định hình một nền văn hóa Phật giáo ở miền Nam, và dấn thân vì đạo và đời. Tất cả họ đều là những bậc chân tu và trí thức. Thế hệ đó giờ càng ít hơn, vì đã có quá nhiều người qua đời hay đang ở tuổi 'xưa nay hiếm', và khó có người thay thế. Ngày nay, nhiều khi người ta không phân biệt được ai là tu sĩ và ai là cán bộ. Lại còn có sự lẫn lộn (hay áp đặt) thần tượng thành Phật. Ngày nay, nhiều tu sĩ có bằng tiến sĩ và những chức danh rộn ràng, nhưng đóng góp của họ cho đạo pháp và Phật học thì lại là một câu hỏi lớn.

 

Sự ra đi của Thầy Quảng Độ có lẽ chẳng làm cho nhà cầm quyền bận tâm, nhưng những Phật tử chân chánh phải suy nghĩ. Suy nghĩ về tương lai của Phật giáo Việt Nam. Nếu nhìn vào những ngôi chùa hoành tráng và những lễ hội được các quan chức viếng thăm, người ta có thể nghĩ rằng Phật giáo Việt Nam đang phát triển tốt. Có lẽ bề mặt là vậy, nhưng nó che đậy những thoái hoá đằng sau. Thời buổi mà đồng tiền và chánh trị thống trị, nhiều tu sĩ đã bị tha hoá về đạo đức, tranh giành quyền lực, và quên đi sứ mệnh của Phật giáo: giác ngộ và diệt khổ cho chúng sanh. Có người cho là thời ‘mạt pháp’, cũng không quá xa với thực tế.

 

Phật giáo Việt Nam khởi đầu từ miền Bắc nhưng cũng suy thoái từ miền Bắc. Có thể nói sự suy thoái bắt đầu từ 1945 trở đi, và đặc biệt là sau Cải cách ruộng đất. Ngày nay, Phật giáo có khi như là một hệ thống doanh nghiệp có mô hình tổ chức như một ... đảng. Năm nào tôi cũng có dịp ra Hà Nội và lưu trú gần trụ sở của Giáo hội Phật giáo Việt Nam trên đường Quán Sứ. Đi ngang đó thấy những chiếc xe sang trọng và xa xỉ (trong nước gọi là 'siêu xe') mang biển màu xanh, là biết ngay có sự nhập nhằng giữa thế quyền và Phật pháp. Rồi vô số những bản tin về các vị tu sĩ và hành xử của họ chỉ làm cho Phật tử ngao ngán và tự hỏi có phải thời mạt pháp đã đến. Rất có thể. Rất cần một thế hệ như thế hệ của Thầy Quảng Độ thì may ra mới khôi phục được Phật giáo Việt Nam.

 

Thầy Quảng Độ đã tạ thế (hay 'chuyển nghiệp') sau hơn 90 năm ở trọ cõi trần. Trong thời gian 90 năm đó, dù với những sóng gió và dao động lịch sử, Thầy vẫn cống hiến cho cả đời và đạo pháp đúng với vai trò của một bậc chân tu và một trí thức dấn thân.

 

Nguyễn Văn Tuân

https://www.nguyenvantuan.info/single-post/2020/02/24/Hoa-thuong-Thich-Quang-Do-Chan-tu-va-tri-thuc

===

 

(1) Theo tiểu sử, Thầy sinh ngày 27/11/1928 ở xã Nam Thanh, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình. Tên khai sanh là Đặng Phúc Tuệ. Chẳng biết thầy vào Nam năm nào, nhưng sự nghiệp Phật pháp của Thầy lừng danh ở miền Nam.

 

(2) Xin chia sẻ một bài thơ của Thầy Quảng Độ viết có lẽ khi còn bị lưu đày ở Thái Bình:

 

CHIỀU ĐÔNG 

 

Nghe lòng xa vắng những chiều đông
Nhìn nước mênh mông khắp mặt đồng
Bát ngát núi xa mờ bóng cọp
Thăm thẳm trời cao bặt cánh hồng

 

Bao độ cà tan cà nở nụ
Mấy mùa lúa rụng lúa đơm bông
Năm tháng mỏi mòn đầu đã bạc
Còn chút lòng son gởi núi sông.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
23/10/2010(Xem: 7572)
Trong lịch sử dựng nước, giữ nước và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc của dân tộc Việt Nam, vương triều Trần (1226-1400) được tôn vinh là triều đại sáng chói nhất thể hiện qua những chiến công hiển hách thắng giặc ngoại xâm cũng như chính sách hộ quốc an dân đã tổng hợp được sức mạnh của toàn dân ta cùng với vua quan trong việc bảo vệ và phát triển đất nước vô cùng tốt đẹp.
23/10/2010(Xem: 8660)
Nhiều thế kỷ trước, một vị vua đã lãnh đạo dân tộc Việt Nam hai lần đẩy lui quân Mông Cổ xâm lăng. Một hôm, vào năm 1293, vị vua anh hùng này đã rời ngôi vua, và vài năm sau trở thành một nhà sư và đã để lại một di sản Thiền Tông bây giờ vẫn còn phát triển để trở thành dòng Thiền lớn nhất tại Việt Nam. Ngài tên là Trần Nhân Tông, vị vua thứ ba của Nhà Trần và là vị sáng lập Dòng Thiền Trúc Lâm.
22/10/2010(Xem: 12058)
Vào khoảng các năm 1972–1974, Cố Hòa thượng Thích Trí Thủ, thường được Tăng Ni-Phật tử gọi cung kính gần gũi là “Ôn Già Lam”, đang trong thời gian dài hoằng pháp tại Nha Trang và các tỉnh miền Trung, Ôn tạm an trú trên chùa Hải Đức, nơi có Phật học viện Trung Phần, trên ngọn đồi Trại Thủy. Khoảnh vườn và thềm hiên phía trước tịnh thất của Ôn dần dà trở thành một hoa viên nho nhỏ với nhiều cây cảnh hoa lá đẹp lạ, là nhờ ở bàn tay chăm sóc thương yêu của một vị cao tăng đức độ nhân từ.
22/10/2010(Xem: 5564)
Chuông ngân chùa xẩm nắng Hương quyện áo tràng bay Trăm tám vì sao rạng Xoay tròn đôi 1óng tay Mười phương cây lặng gió Năm sắc hồ trôi mây Làn nước lên đầu núi Ánh vàng tràn đó đây.
21/10/2010(Xem: 6899)
Trong cõi nhân gian mịt mù tăm tối vì vô minh và phiền não, sự xuất hiện của một bậc chân tu đạo hạnh để dìu dắt con người trên đường tìm về giác ngộ và giải thoát, quả thật không khác gì một vì sao sáng trên bầu trời làm định hướng cho lữ hành trong đêm tối. Trong ý nghĩa này, Cố Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Trí Chơn là một vì tinh tú sáng rực.
20/10/2010(Xem: 4671)
Hòa thượng Thích Trừng San, pháp tự Minh Hiền, hiệu Hải Tuệ, thế danh Nguyễn San sau đổi là Trần Văn Lâu, nối pháp đời thứ 42 dòng Lâm Tế Liễu Quán. Ngài sinh năm Nhâm Tuất (1922), tại thôn Phú Khánh, xã Diên Thạnh, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa.
19/10/2010(Xem: 10932)
Sáng ngày 22.01 Quý Tỵ (03.03.2013) tại Tổ đình Tường Vân, tổ 16, khu vực 5, phường Thủy Xuân, thành phố Huế, Chư Tôn đức Tăng Ni trong sơn môn pháp phái Tường Vân đã đã trang nghiêm trọng thể tổ chức Lễ Tưởng niệm 40 năm ngày Đức Trưởng lão Đệ Nhất Tăng thống Thích Tịnh Khiết viên tịch.
16/10/2010(Xem: 7533)
Ấn tượng khó quên mà lần đầu tiên tôi gặp Thầy Phạm Công Thiện là Thầy đã khuyên tôi nên tinh tấn tu tập, thực hành lời Phật dạy và niệm Phật. Lần đó là vào giữa năm 1991, nửa năm sau khi tôi từ New York dời về Cali để sống, tại Chùa Diệu Pháp, thành phố Monterey Park, Los Angeles. Trong đầu tôi, trước khi gặp Thầy, mường tượng ra một Phạm Công Thiện hiên ngang và nói thao thao bất tuyệt về triết học Tây Phương, về Trung Quán, về Bát Nhã, v.v... Nhưng không, tất cả những suy nghĩ viễn vông và mộng tưởng đó đều bị sụp đổ tan tành khi tôi ngồi đối diện với Thầy Phạm Công Thiện trong một căn phòng nhỏ ở Chùa Diệu Pháp. Thầy Phạm Công Thiện, với dáng điệu từ tốn, khiêm cung, trầm lặng, chỉ nói những điều hết sức bình thường, chỉ khuyên những điều hết sức phổ thông mà người Phật tử nào cũng thường nghe quý Thầy khuyên bảo như thế.
13/10/2010(Xem: 4205)
Bữa tôi ra mắt sách tại Orlando, cựu Đại Tá Nguyễn Quốc Quỳnh, Hội Trưởng Hội Cao Niên Orlando và Vùng Phụ Cận, có nhắc tôi là bài "Nhà Sư Của Tôi" (NSCT) trong cuốn tạp văn "Viên Đạn Cuối Cùng" còn thiếu nhiều chi tiết. Tôi cảm ơn cụ Quỳnh và hứa là nhân dịp Tân Niên Canh Thìn (y2k) tức Năm Rồng đầu thiên niên kỷ mới, tôi sẽ kể thêm về những câu chuyện tại Trại "cải tạo" Thanh Phong, huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hóa.
12/10/2010(Xem: 6715)
Chân Nguyên chủ trương then chốt của việc đạt được giác ngộ là thắp sáng liên tục ý thức của mình về sự hiện hữu của tự tính “trạm viên” đó là nguồn gốc chân thật của mình.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567