Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Day 02: Lễ Mừng Khánh Tuế 70 tuổi Hòa Thượng Phương Trượng Tổ Đình Viên Giác, Hannover, Đức Quốc

28/06/201921:50(Xem: 18261)
Day 02: Lễ Mừng Khánh Tuế 70 tuổi Hòa Thượng Phương Trượng Tổ Đình Viên Giác, Hannover, Đức Quốc

Ngày thứ hai, thứ Sáu ngày 28 tháng 6 năm 2019

 

Công Phu khuya:

 

Sáng nay, giờ công phu thứ hai của những ngày Đại Lễ tại Tổ Đình, quý chư Tôn đức Tăng Ni quang lâm Chánh điện để thọ trì thời công phu sáng, quý Phật tử đang hiện diện tại Tổ Đình cũng đã vân tập từ rất sớm.

Oai lực của Đạo Tràng tạo nên một âm hưởng vô cùng mạnh mẽ, tiếng hô canh tọa thiền vang lên trong không gian còn tĩnh lặng, những chiếc huỳnh đang ngồi uy nghi dưới ánh điện nhạt nền hồng, trên Bảo tọa Đức Như Lai đang tọa vị cùng những tôn tượng Phật Bồ Tát, khói trầm nhẹ lan tỏa, khung cảnh chốn thiền tịch tĩnh mang chút u huyền trầm mặc.

 

Giờ xướng lễ công phu được vang lên, tiếng tán tụng hòa vang tạo âm thanh cực kỳ thanh thoát, cả đạo tràng cùng trì tụng Thần chú Lăng Nghiêm trầm hùng, đạo hạnh, năng lực từ bi của quý Ngài như tác động đến cả ngôi Tổ Đình trong an tịnh.

 

Sau thời công phu sáng, Tổ Đình như rộn hẳn lên, những làn gió nhẹ đang lùa vào trong từng khung cửa sổ, những cây cối trong chùa cũng như vui nhộn hơn bình thường, đang vẫy chào chư Tôn Đức cùng quý quan khách và Phật tử đang lần lượt về Tổ Đình mỗi lúc càng đông. Trong không khí đó, tất cả những ban phân công cho những ngày Đại lễ như khẩn trương hơn.

Có lẽ trong tâm tưởng của chư Tôn Đức  Tăng Ni cùng chư Tôn Đức thì  hôm nay là một ngày rất được trông đợi.

 

Nhìn những Phật tử đang vân tập về Chánh điện, tuy cố giữ trang nghiêm cho đạo tràng, nhưng trên nét mặt của mọi người ai cũng hân hoan, mang tâm trạng mừng vui khi được về dự lễ Khánh tuế của Hòa Thượng Tôn Sư.

 

Lễ Khánh Thọ Hòa Thượng Phương Trượng:

 

Thượng Tọa Thích Hạnh Tuệ, điều hành chương trình, hướng dẫn những chi tiết cặn kẽ để buổi lễ được trang nghiêm thanh tịnh. Chư Tăng Ni đã vân tập đến Chánh điện để chuẩn bị cung đón chư Tôn Trưởng lão Hòa Thượng quang lâm Chánh điện. Trong tiếng xướng niệm

 Hồng danh Bổn Sư Thích Ca cùng tiếng chuông trống Bát nhã, oai lực của Tam Bảo, Hộ Pháp cùng cảnh trí tại Chánh điện làm cho tất cả lắng lòng thanh tịnh cùng hướng về điểm chung nhất đó là Lễ Khánh Tuế của Hòa Thượng Phương Trượng.

 

Buổi lễ được sự chứng minh của chư Tôn Hòa Thượng: Hòa Thượng Thích Tánh Thiệt (Pháp quốc), Hòa Thượng Thích Trí Minh ( Na uy), Hòa Thượng Thích Như Tín (Việt Nam), Hòa Thượng Thích Như Thọ ( Việt Nam), Hòa Thượng Thích Tín Nghĩa ( Hòa Kỳ), Hòa Thượng Thích Bảo Lạc ( Úc Châu), Hòa Thượng Thích Trường Sanh ( Tân Tây Lan), Hòa Thượng Thích Quảng Ba (Úc Châu) Hòa Thượng Thích Nguyên Siêu (Hoa Kỳ), Hòa Thượng Thích Minh Nghĩa, Hòa Thượng Thích Quảng Bình, Hòa Thượng Thích Thông Hải (Hoa Kỳ)… Chư Tôn Đức Ni có: Ni trưởng Thích Nữ Như Tuấn, Ni Trưởng Thích Nữ Như Viên, Ni Trưởng Thích Nữ Diệu Cảnh, Ni Trưởng Thích Nữ Hạnh Tâm, Ni Trưởng Thích Nữ Diệu Chỉ, Ni Trưởng Thích Nữ Diệu Phước, Ni Trưởng Thích Nữ Giới Châu…

Theo số liệu chưa chính xác thì số lượng chư Tôn Đức Tăng Ni đến chứng minh và chúc mừng lễ Khánh tuế của Hòa Thượng Phượng Trượng Tổ Đình Viên Giác gần 300 vị, bao gồm nhiều tự viện từ nhiều quốc gia trên thế giới, hàng ngàn Phật tử, nhiều cơ quan truyền thông và báo chí trong cũng như ngoài nước Đức đã cập nhật và đưa tin về những ngày Đại Lễ.

 

“Ơn giáo dưỡng một đời nên huệ mạng

Nghĩa Ân sư muôn kiếp khó đáp đền”

 

Sau lời dẫn của Thượng Tọa Thích Hạnh Tuệ, Thượng Tọa Thích Hạnh Tấn cùng tất cả tứ chúng Tổ Đình Viên Giác, kính cẩn đảnh lễ hiện tiền chư Tôn Đức chứng minh trước khi dâng lời tác bạch, một nét đẹp trong ngày lễ Khánh tuế Tôn Sư:

 

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni:

 

Ngưỡng bạch hiện tiền chư Tôn Đức Tăng Ni,

Kính bạch Hòa Thượng Tôn Sư: “Thế gian nói tam thập nhi lập, chưa tới tuổi này Sư Phụ đã dấn thân vào các miền của xứ Đức và Châu Âu để tạo dựng một nền móng cho cộng đồng Phật tử phát triển, đem niềm tin Phật Pháp gieo vào lòng những người con Việt xa quê hương.

Hôm nay đây, chúng con hàng đệ tử quỳ trước Sư Phụ dưới sự chứng minh của Tam Bảo, nhất niệm bày tỏ lòng biết ơn Sư Phụ đã tạo duyên cho chúng con đến với đời sống xuất gia, đã đặt cơ sở để cho chúng con có thể thuận lợi trong việc hoằng dương Chánh pháp nơi xứ này. Trong sự niệm ân đó, chúng con cũng niệm ân Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất đã cưu mang Sư Phụ, niệm ân Sư Ông Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Long Trí đã đưa Sư Phụ vào Đạo, niệm ân hai Đấng Sanh thành của Sư Phụ đã mang Sư Phụ vào đời. Ngưỡng nguyện  Tam Bảo gia bị cho Sư phụ trong những năm tháng tới có thể thong dong hơn trong cuộc sống, để theo đuổi sở thích dịch thuật trước tác của mình, hoặc tìm về tìm bản tánh chơn như theo mục đích của đời sống một bậc xuất trần làm điểm son trong cuộc đời đầy sắc màu mà Sư Phụ đã trải qua.

Ân Thầy bàng bạc tựa áng mây

Lơ lững hư không khắp đó đây

Dừng chân Xứ Đức lòng rộng trải

Cam lồ từng giọt thấm trời Tây.

 

Thất thập cổ lai hi, quan niệm mà người đời đều biết, quãng đời Sư Phụ đã đi qua, chúng con rồi sẽ đến, chúng con nguyện học tập từ đời sống của Sư Phụ để thăng hoa tâm thức của tự thân và phát nguyện cố gắng giữ gìn mạng mạch của Như Lai không dứt đoạn ở những nơi mà chúng con đến, để làm món quà dâng lên Sư Phụ trong ngày kỷ niệm này.

Ngưỡng mong Sư Phụ chứng biết cho chúng con. Nam Mô Phổ Cúng Dường Bồ Tát".

 

Trong phát Bồ Đề Tâm Văn, Tổ Sư Tĩnh Am có dạy: “Ngày nay chúng ta giáo pháp thấm nơi thân, ca sa khoác trên người tất cả đều nhờ ơn Sư Trưởng tác tạo”. Cuộc sống của chúng sanh vạn loại, cứ theo dòng luân chuyển, sanh diệt luân hồi. không có gì may mắn và hạnh phúc hơn khi trong đời này, được gặp Minh sư, sống trong sự giáo dưỡng của suối nguồn từ bi vi diệu của Phật pháp. Nếu không có Sư Trưởng thì cuộc sống này cứ vẫn mịt mờ, con đường phía trước chỉ là những lối mòn của tập khí, của những ràng buộc trong cuộc sống đầy phiền lụy.

Trong suốt mấy mươi năm khó nhọc, Ân sư đã tác thành giới thân tuệ mạng cho chúng con. Giờ đây với tất cả tấm lòng chí thành chí kính, tất cả hàng đệ tử chúng con, nguyện đem tất cả những gì thanh cao nhất, thanh khiết nhất, tinh anh nhất của cuộc đời mà chúng con tu tập được, xin gói trọn trong chung trà này. Nguyện Sư Phụ chứng tri.

 

Hòa Thượng Phương Trượng ban pháp từ:

 

Sau lời khải bạch đến chư Tôn Đức Tăng Ni, Hòa Thượng Phương Trượng đã ban lời giáo huấn:

“Phật pháp tại thế gian, bất ly thế gian giác” Phật dạy Phật pháp trong đời sống thường, trước hết chúng ta cần hoàn thiện tư cách trong vai trò của một con người bình thường. Sau đó làm nền tảng để vươn lên tâm nguyện cao xa, rộng lớn hơn.

Trong tinh thần niệm ân nhớ ân về nguồn cội Tổ Đức, nhờ ân đức của chư vị Tổ Sư mà cụ thể là công đức của Tổ Sư Minh Hải Pháp Bảo. Nhờ ơn đức của Tổ mà Hòa Thượng đã tôi luyện tâm nguyện ý chí của mình để từng bước hoàn thành tâm nguyện. Và chính trong niềm tôn kính vô biên ấy là động lực cho Hòa Thượng luôn tâm nguyện tu hành, quảng phát đại nguyện, gìn giữ Tông phong, dẫu cho bên ngoài những đổi thay, nhưng trong dòng pháp Tông môn không bao giờ đoạn tuyệt.

Hòa Thượng Phương Trượng bày tỏ niềm tri ân sâu xa đến chư Tôn đức Trưởng lão Hòa Thượng, đặc biệt là quý chư Tôn Đức Trong Môn Phái Lâm Tế Chúc Thánh tại Việt Nam.

Thật cảm động khi Hòa Thượng nói:

Cảm niệm ân đức sanh thành dưỡng dục của Mẹ Cha.

Cảm niệm ân đức Hòa Thượng Thích Bảo Lạc, Ngài là bào huynh của chúng tôi, nếu không có Ngài thì có lẽ bản thân chúng tôi cũng chưa chắc đã được thành tựu như ngày nay.

 

Huấn từ của Hòa Thượng Thích Bảo Lạc:

 

Hòa Thượng Thích Bảo Lạc đã nhắc đến đại chúng về Tổ Minh Hải Pháp Bảo ( ngày 28 tháng 6 năm Canh Tuất (1670). Tổ Sư tuy không phải người bản xứ, nhưng đến Việt Nam để hoằng hóa vào niên hiệu Cảnh Trị năm thứ 3 đời Vua Lê Huyền Tôn, Đinh Tỵ (1677), đời chúa Nguyễn Phúc Tần. Ngài Minh Hải-Pháp Bảo khai sơn chùa Chúc Thánh tại Cẩm Phô-Hội An. Lúc bấy giờ Ngài độ khoảng 26 hoặc 27 tuổi. Từ những ngày đầu tiên ở nơi mảnh đất đầy cát bụi này, Ngài chỉ lập một thảo am để tịnh tu phạm hạnh. Dần dần hương giới đức của Ngài lan tỏa khắp mọi nơi, ảnh hưởng đạo đức đến người dân phố Hội và các vùng phụ cận nên đồ chúng mỗi ngày càng quy ngưỡng tham học càng đông.

Thấy cơ duyên hóa độ đã đến, Ngài chính thức khai đường giảng pháp, tiếp Tăng độ chúng. Để cho sự truyền thừa có quy củ dài lâu, Ngài biệt xuất một bài kệ truyền pháp như sau:

 

Minh Thiệt Pháp Toàn Chương
Ấn Chơn Như Thị Đồng
Chúc Thánh Thọ Thiên Cửu
Kỳ Quốc Tộ Địa Trường
Đắc Chánh Luật Vi Tông
Tổ Đạo Giải Hạnh Thông
Giác Hoa Bồ Đề Thọ
Sung Mãn Nhơn Thiên Trung

 

Từ đây, trong dòng lịch sử truyền thừa của Phật giáo Việt Nam có một dòng Thiền mới xuất hiện mà sử sách gọi là dòng Thiền Chúc Thánh, hay còn gọi Thiền phái Minh Hải Pháp Bảo. Trong bài kệ này, 4 câu đầu dùng để đặt pháp danh và 4 câu sau dùng để cho pháp tự. Hiện nay, dòng Thiền Chúc Thánh đã truyền xuống đến các chữ Thánh, Thọ và sự ảnh hưởng của dòng Thiền này không những ở các tỉnh miền Trung, miền Nam mà còn lan tận đến các quốc gia ở các châu lục trên thế giới. Sau gần 50 năm sang An Nam trác tích hoằng hóa, đến ngày mồng 7 tháng 11 năm Bính Dần (1746), Ngài gọi đồ chúng đến dặn dò và đọc kệ phú chúc:

 

Nguyên phù pháp giới không
Chơn như vô tánh tướng
Nhược liễu ngộ như thử
Chúng sanh dữ Phật đồng

Tạm dịch:

Pháp giới như mây nổi
Chân như không tánh tướng
Nếu hiểu được như vậy
Chúng sanh với Phật đồng

 

Hòa Thượng dạy tiếp

“Cây cội mới nở cành xanh ngọn

Nước có nguồn mới bủa khắp rạch sông”

Trong ý nghĩa thiêng liêng vô cùng quan trọng, người đệ tử hay người con cần phải quan tâm Cha Mẹ, Thầy Tổ của mình khi các bậc tôn quý ấy còn đang hiện thế, đừng để những lời thương tiếc hay hối hận muộn màng.

Cầu mong Sư Phụ trường thọ là một hiếu đạo, nhưng điều mong muốn nhất của các Bậc Sư Trưởng là mong các hàng đệ tử trong Tông Phong, nương ân đức của Tôn Sư, học hạnh Ân sư để làm cho mạng mạch của Phật Pháp trường lưu mãi mãi tồn tại trên thếgian này, để cho bao loài hữu tình đều được thấm nhuần ơn đức Tam Bảo.

 

Là hậu duệ của Bậc Tổ Sư mà uy đức của Ngài đã trải dài hơn 3 thế kỷ, chúng ta cần phải cố gắng để phát huy tinh thần của Tổ Sư mà làm lợi lạc cho muôn loại. Nếu như trên bước đường tu học, có những chướng duyên, nghịch cảnh, những lỗi lầm trong đời sống thì điều cần thiết là phải phủ phục dưới Tôn Tượng Quý Ngài sám hối, quán tưởng những công đức và hành trạng của quý Ngài để thanh lọc thân tâm mà tiến tu đạo nghiệp.

 

Đạo Từ của Hòa Thượng Thích Như Tín

 

Hòa Thượng Thích Như Tín, đại diện cho Tông phong Pháp phái Lâm Tế Chúc Thánh, cùng tất cả hiện tiền chư Tôn Đức chứng minh ban đạo từ:

“Thân Thị Bồ Đề thọ”, “Bồ đề bổn vô thọ”, là hai câu kệ của Pháp Bảo Đàn Kinh được Hòa Thượng trích dẫn để khuyến tấn đại chúng. Và với lời cầu chúc Hòa Thượng Phương Trượng trường thọ và sự nghiệp hoằng pháp thành tựu viên mãn.

 

Trong phần tặng quà và dâng quà lưu niệm đến Hòa Thượng Phương Trượng, vì thời lượng có hạn của chương trình nên ngay tạiChánh điện có 42 Chư Tôn Đức Tăng Ni, Đại diện cho các Tu Viện, chùa, tịnh thất, niệm Phật đường.. , và 54 Phật tử khắp nơi trên thế giới. Tuy nhiên, có một số quý chư Tôn Đức, Phật tử tặng quà, dâng quà ẩn danh, không phải trong thời điểm trên và không gian cũng rất nhiều. Xin cảm niệm ân đức của quý Tăng Ni và cảm ơn tất cả quý Phật tử.

Trong phần dâng quà, có phần quà của Ban Hoằng Pháp Âu-Mỹ, Thượng Tọa Thích Nguyên Tạng đại diện cho chư Tôn đức Tăng Ni trong phái đoàn tác bạch, với tất cả tấm lòng thành kính của người hậu học. Thượng tọa Thích Nguyên Tạng đã bày tỏ tấm lòng tri ân sâu sắc, với tâm nguyện thuyết pháp độ sinh, Hòa Thượng Phương Trượng đã thành lập phái đoàn hoằng pháp Âu Mỹ suốt gần hai mươi năm qua và Ngài làm trưởng đoàn. Trong những chuyến đi ấy, từ những tiểu bang của Mỹ, Canada, Châu Âu Hòa Thượng luôn vì tâm nguyện học pháp lợi lạc quần sanh mà không từ gian khổ. Trong năm nay cũng là chuyến cuối của Hòa Thượng trong vai trò trưởng đoàn Hoằng Pháp. Ngài muốn dành khoảng thời gian còn lại của đời mình để đọc đại tạng kinh và hoàn tất đại nguyện của bậc xuất trần thượng sĩ. Thế nhưng theo lời giáo huấn của Hòa Thượng: “Sức khỏe con người có giới hạn, nhưng tâm nguyện vì Pháp không giới hạn. Thầy không dẫn phái đoàn đi thuyết pháp nhưng tâm nguyện đó Thầy muốn quý Tăng Ni giữ gìn. Nay xin ủy thác tâm nguyện này cho Thượng Tọa Thích  Nguyên Tạng, thay thế Ngài vai trò điều hợp Đoàn Hoằng Pháp Thế Giới, Thượng Tọa Thích Thông Triết, Châu Mỹ, Thượng Tọa Thích Viên Giác, Châu Âu”, những lời dạy của Ôn thật làm cho quý Thầy, Quý Sư Cô trong phái đoàn Hoằng pháp vô cùng cảm động.

 

Văn nghệ cúng dường:

Để bày tỏ tấm lòng đối với bậc Tôn Sư khả kính, nam ca sỹ Gia Huy cùng một số Anh Chị ca sỹ đến từ Hòa Kỳ và các Gia đình Phật tử Việt Nam đã đóng góp những tiết mục thật sâu lắng, chan chứa sự phụng thờ Sư Trưởng, tôn kính Mẹ Cha. Những vở kịch được chuẩn bị công phu và tràn đầy tấm lòng thiết tha dâng cúng lên Hòa Thượng Tôn Sư

Đại Giới Đàn Quán Thông:

Nhân dịp mừng khánh thọ lần thứ 70. Hòa Thượng Phương Trượng Viên Giác có tâm nguyện tổ chức Đại Giới Đàn  nhằm “Tiếp dẫn Hậu Lai Báo Phật Ân Đức”. Được sự chấp thuận của HĐĐH Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Châu Âu, kiến lập Tuyển Phật Trưởng, Tam Đàn Thọ Cụ. Giới Đàn tên là Quán Thông, pháp hiệu của bậc cao Tăng Phật Giáo Việt Nam.

Khảo hạch Giới tử:

Theo chương trình chiều ngày 28 tháng 6 năm 2019, Chư Tôn Đức trong Ban giám khảo: Thượng Tọa Thích Tâm Huệ, Thượng Tọa Thích  Giác Thanh, Đại Đức Thích Hạnh Giới tiến hành khảo hạch giới tử theo quy định của Ban Tổ chức.

Số lượng giới tử:

Sa di: 4 giới tử

Sa di ni: 6 giới tử

Thức xoa: 15 giới tử

Tỳ kheo Ni: 5 giới tử

Tỳ kheo: 7 giới tử

Cung An Chức Sự:

Thượng Tọa Thích Hoằng Khai, được sự chỉ định của Hòa Thượng Chánh Chủ Đàn, dâng lời tác bạch, cung thỉnh Cung An Chức Sự.

Hội Đồng Thập Sư Tăng:

Đàn Đầu Hòa Thượng:  Hòa Thượng Thích Bảo Lạc

Yết ma a xà lê: Hòa Thượng Thích Tánh Thiệt

Giáo Thọ A Xà Lê: Hòa Thượng Thích Tín Nghĩa

Đệ Nhất Tôn Chứng: Hòa Thượng Thích Trí Minh

Đệ Nhị Tôn Chứng: Hòa Thượng Thích Nguyên Siêu

Đệ Tam Tôn Chứng: Hòa Thượng Thích Quảng Ba

Đệ Tứ Tôn Chứng: Hòa Thượng Thích Trường Sanh

Đệ Ngũ Tôn Chứng: Hòa Thượng Thích Thích Bổn Đạt

Đệ Lục Tôn Chứng: Hòa Thượng Thích Quảng Hiền

Đệ Thất Tôn Chứng: Hòa Thượng Thích Minh Giác

 

Đệ Nhất Tuyên Luật Sư: Thượng Tọa Thích Tâm Huệ

Đệ Nhị Tuyên Luật Sư: Thượng Tọa Thích Giác Thanh

 

Đệ Nhất Dẫn Thỉnh: Thượng Tọa Thích Hoằng Khai

Đệ Nhị Dẫn Thỉnh: Thượng Tọa Thích Nguyên Lộc

 

Hội Đồng Thập Sư Ni:


Đan Đầu Hòa Thượng: Ni Trưởng Thích Nữ Như Tuấn
Yết ma a xà lê: Ni Trưởng Thích Nữ Như Viên
Giáo Thọ A Xà Lê: Ni Trưởng Thích Nữ Diệu Phước
Đệ Nhất Tôn Chứng: Ni Sư Thích Nữ Như Minh
Đệ Nhị Tôn Chứng: Ni Sư Thích Nữ Minh Hiếu
Đệ Tam Tôn Chứng: Ni Sư Thích Nữ Diệu Trạm
Đệ Tứ Tôn Chứng: Ni Sư Thích Nữ Huệ Châu
Đệ Ngũ Tôn Chứng: Ni Sư Thích Nữ Huệ Thanh
Đệ Lục Tôn Chứng: Ni Sư Thích Nữ Như Quang
Đệ Thất Tôn Chứng: Ni Sư Thích Nữ Nhất Nguyên

Đệ Nhất Dẫn Thỉnh: Ni Sư Thích Nữ Tuệ Trí
Đệ Nhị Dẫn Thỉnh: Sư Cô Thích Nữ Hạnh Khánh
Thông dịch và hướng dẫn giới tử ngoại quốc: Sư Cô Thích Nữ Hạnh Trì

Nam Mô Đại Từ Mẫn Cố Đại Từ Mẫn Cố Hoan Hỷ Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát-tác-đại chứng minh.
Ngày 28 tháng 6 năm 2019
( Ngày 26 tháng 6 năm Kỷ Hợi)
Phương Trượng Tổ Đình Viên Giác, Đức Quốc.
Chánh Chủ Đàn
Hòa Thượng Thích Như Điển
Bái yết

 

 Ghi nhanh: Thích Hạnh Phẩm

Nhiếp ảnh: Thích Đồng Thiên, Đh. Nguyên Trí


 

Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (1)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (2)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (3)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (4)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (5)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (6)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (7)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (8)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (9)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (10)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (11)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (12)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (13)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (14)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (15)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (16)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (17)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (18)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (19)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (20)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (21)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (22)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (23)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (24)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (25)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (26)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (27)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (28)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (29)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (30)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (31)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (32)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (33)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (34)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (35)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (36)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (37)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (38)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (39)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (40)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (41)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (42)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (43)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (44)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (45)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (46)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (47)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (48)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (49)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (50)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (51)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (52)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (53)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (54)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (55)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (56)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (57)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (58)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (59)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (60)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (61)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (62)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (63)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (64)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (65)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (66)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (67)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (68)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (69)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (70)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (71)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (72)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (73)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (74)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (75)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (76)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (77)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (78)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (79)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (80)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (81)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (82)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (83)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (84)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (85)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (86)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (87)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (88)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (89)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (90)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (91)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (92)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (93)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (94)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (95)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (96)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (97)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (98)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (99)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (100)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (101)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (102)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (103)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (104)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (105)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (106)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (107)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (108)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (109)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (110)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (111)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (112)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (113)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (114)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (115)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (116)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (117)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (118)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (119)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (120)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (121)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (122)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (123)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (124)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (125)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (126)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (127)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (128)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (129)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (129-a)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (131)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (132)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (133)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (134)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (135)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (136)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (137)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (138)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (139)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (140)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (141)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (142)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (143)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (144)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (145)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (146)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (147)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (148)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (149)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (151)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (152)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (153)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (154)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (155)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (156)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (157)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (158)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (159)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (160)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (161)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (162)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (163)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (164)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (165)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (166)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (167)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (168)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (169)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (170)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (171)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (172)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (173)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (174)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (175)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (176)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (177)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (178)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (179)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (180)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (181)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (182)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (183)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (184)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (185)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (186)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (187)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (188)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (189)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (190)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (191)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (192)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (193)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (194)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (195)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (196)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (197)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (198)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (199)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (200)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (201)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (202)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (203)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (204)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (205)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (206)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (207)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (208)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (209)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (210)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (211)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (212)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (213)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (214)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (215)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (216)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (217)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (218)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (219)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (220)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (221)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (222)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (223)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (224)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (225)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (226)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (227)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (228)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (229)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (230)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (231)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (232)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (233)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (234)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (235)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (236)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (237)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (238)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (239)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (240)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (241)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (242)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (243)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (244)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (245)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (246)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (247)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (248)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (249)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (250)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (251)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (252)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (253)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (254)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (255)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (256)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (257)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (258)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (259)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (260)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (261)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (262)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (263)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (264)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (265)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (266)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (267)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (268)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (269)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (270)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (271)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (272)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (273)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (274)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (275)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (276)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (277)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (278)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (279)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (280)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (281)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (282)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (283)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (284)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (285)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (286)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (287)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (288)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (289)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (290)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (291)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (292)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (293)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (294)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (295)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (296)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (297)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (298)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (299)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (300)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (301)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (302)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (303)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (304)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (305)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (306)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (307)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (308)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (309)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (310)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (311)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (312)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (313)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (314)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (315)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (316)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (317)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (318)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
29/03/2013(Xem: 7561)
Trường trung học chưa được cất. Ngoài giờ học, bọn trẻ tha hồ đi rong chơi. Khi lên núi Lăng, khi lên Thạch Động, lúc ra biển Mũi Nai. Mấy đứa con trai rắn mắt, thích cảm giác mạnh thì rủ nhau hái trộm xoài, đặt bẫy, bắn chim hoặc xuống mé biển dưới chân hòn Kim Dự, ...
29/03/2013(Xem: 5793)
Nói đến thơ và nền Triết Học lưu xuất từ Tư Tưởng Phật học Tánh Không hay một Triết lý phiêu bồng từ Đông sang Tây của thế tục đế, hầu như đã được tồn đọng trong con người gầy guộc, nhỏ nhắn, dáng dấp phiêu diêu, lãng đãng như sương sớm, mây chiều.
29/03/2013(Xem: 5586)
Những năm tháng dùi mài kinh điển trong các tự viện để thể nhập Phật học huyền vi, u hiển, một thời nào đó đã lầu thông giáo lý cao siêu giải thoát, hướng thân lập mệnh trên con đường giác ngộ, để rồi hôm nay là thành quả hiển nhiên có được tận cùng tâm hồn sâu thẳm mà Thầy đang phô diễn như ý nghĩa cao siêu của Đại Bi Tâm.
29/03/2013(Xem: 5859)
Đây là chủ đề bài thuyết trình của diễn giả Nguyên Siêu, tác giả 650 trang sách trong tác phẩm “Tuệ Sỹ Đạo Sư, Thơ, Và Phương Trời Mộng” tập 1 và tập 2 vừa hoàn thành và được chính thức ra mắt tại hội trường của Hiệp Hội Người Việt tại San Diego, miền Nam California.
29/03/2013(Xem: 12053)
Tôi người Quảng Bình, 1 trong 3 nơi mà Huyền Trân công chúa mới đáng là thành hoàng. Tổ tiên gốc người Hải dương, 4 cha con cùng có mặt trong đạo quân tiếp quản Quảng Bình, rồi định cư ở 3 làng. Thuận Lý là con trưởng, kế đó, Phương Xuân là con thứ 2. Diêm điền, làng tôi, là nơi Tổ của làng tôi cùng con út định cư.Làng tôi cách trung tâm tỉnh lỵ Quảng bình chỉ có chừng 600 mét đường chim bay.
27/03/2013(Xem: 12024)
Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư, Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn - lần 01 (2007, Canada) Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn - lần 02 (2008, Hoa Kỳ) Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn - lần 03 (2019, Hoa Kỳ) Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn - lần 04 (2010, Đức) Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn - lần 05 (2011, Pháp) Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn - lần 06 (2012, Úc) Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn - lần 07 (2013, Hoa Kỳ) Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn - lần 08 (2014, Úc) Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn - lần 09 (2015, Pháp) Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn - lần 10 (2016, Canada) Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn - lần 11 (2018, Pháp) Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn - lần 12 (2020, Úc)
18/03/2013(Xem: 6383)
Viện Đại học Vạn Hạnh ở Sài Gòn, thủ đô miền Nam Việt Nam, trước năm 1975 là một trung tâm văn hóa Phật giáo nổi tiếng lừng lẫy. Nơi đây đã quy tụ biết bao hào kiệt trượng phu, biết bao tao nhân mặc khách, biết bao giáo sư, triết gia cự phách thượng đẳng. Đặc biệt là các thiên tài xuất chúng siêu việt như Phạm Công Thiện, Tuệ Sỹ, Lê Mạnh Thát, nổi bật nhất là Bùi Giáng, một thi sĩ kỳ dị, xưa nay chưa từng thấy xuất hiện trên bầu trời văn nghệ Việt Nam và thế giới.
11/03/2013(Xem: 7071)
Lê Quý Đôn (1726-1784) là một danh sĩ, nhà văn hóa, sử gia, sống vào đời Hậu Lê. Ông không những ba lần thi đều đỗ đầu, kinh qua nhiều chức quan, đã từng đi sứ sang Trung Quốc, mà còn là một nhà bác học, đã để lại một gia tài đồ sộ bao gồm khoảng 16 tác phẩm và nhiều thơ, phú bằng chữ Nôm khác. [1] Trong số những tác phẩm ấy, có Kiến văn tiểu lục, [2] là một tác phẩm dành riêng quyển 9 – thiên Thiền dật, để viết về Phật giáo và Thiền tông Phật giáo Việt Nam, chủ yếu là những vị Tổ thuộc Thiền phái Trúc lâm. Trong bài viết ngắn này, chúng ta thử chỉ tìm hiểu quan điểm của Lê Quý Đôn về Phật giáo, mà không bàn sâu đến phần Thiền tông Việt Nam mà ông đã chép.
21/02/2013(Xem: 7638)
Hòa thượng Thích Tâm Giác, thế danh là Trần Văn Mỹ, sinh năm 1917 tại tỉnh Nam Định, thân phụ là cụ ông Trần Văn Quý, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Suôi. Ngài là con trai thứ hai trong gia đình gồm hai trai một gái. Ngài sinh trưởng trong một gia đình Nho phong. Thân phụ Ngài tinh thông Hán học. Cả hai ông bà lại rất thâm tín Phật pháp. Do đó, Ngài được hấp thụ ngay từ thuở ấu thơ hai nền văn hóa cổ truyền của dân tộc là Khổng giáo và Phật giáo.
19/02/2013(Xem: 9061)
Mới đây các nhà khảo cổ Mỹ và Canada đưa ra chứng cứ cho rằng Phật giáo đã được truyền vào Mỹ trước khi ông Columbus tìm ra châu Mỹ. Tuy nhiên, theo các tài liệu có được hiện nay thì Phật giáo chỉ thật sự có mặt tại Mỹ sau kỳ Đại hội Tôn giáo Thế giới tổ chức tại bang Chicago vào năm 1893. Nhưng ai là người có công truyền bá và làm lớn mạnh "hạt giống Bồ đề" trên đất Mỹ? Trong bài này, chúng tôi sẽ giới thiệu một số nhà sư cư sĩ người châu Á, những người tiên phong có công đặt nền móng xây dựng ngôi nhà chánh pháp trên đất Mỹ.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]