Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Cư Sĩ Nguyễn Văn Bốn Pháp Danh: Tâm Biên (Thân Phụ của HT Thích Nguyên Trực, Trụ Trì Chùa A Di Đà, Sydney, Úc Châu)

18/05/201918:17(Xem: 5263)
Cư Sĩ Nguyễn Văn Bốn Pháp Danh: Tâm Biên (Thân Phụ của HT Thích Nguyên Trực, Trụ Trì Chùa A Di Đà, Sydney, Úc Châu)


cu si nguyen van bon 2

Tiểu Sử:

Cư Sĩ Nguyễn Văn Bốn

Pháp Danh: Tâm Biên.

Pháp Tự: Thiện Hiền (Quảng Thông)

Pháp Hiệu: Hạnh Khế.


Cố chơn linh NGUYỄN VĂN BỐN, sanh ngày: 20. 02. 1929 (11. 01. Kỷ Tỵ) tại thôn Đại Điền Đông, Diên Điền, Diên Khánh - Khánh Hòa. Trong một gia đình chánh tín Tam Bảo, là người con trai duy nhất trong năm chị em. Nội tổ Phụ qua đời khi Cố chơn linh lên 07 tuổi.

Lên năm 10 tuổi xuất gia tu học tại Tổ đình Chùa Thiên Quang, nay thuộc thị trấn Diên Khánh. Khánh Hòa. Qui y thọ phái, được Tổ Nhơn Duệ thuộc dòng Lâm Tế đời thứ 42 cho Pháp danh là Tâm Biên. Năm 14 tuổi Tổ cho đi thọ giới Sa Di tại giới đàn Chùa Kim Long, thôn Phú Hòa, xã Ninh Quang- Khánh Hòa và Tổ cho Pháp Tự là Thiện Hiền.

Năm Giáp Thân 1944 trong khi Tổ Nhơn Duệ nhập tháp, Cố chơn linh khi vừa tròn 16 tuổi, căn cứ vào tinh thần thiết tha cầu đạo và trí thông minh trong giới đàn Kim Long đậu thủ khoa trong hàng Sa Di, nên Tổ đặc cách cho truyền giới Cụ túc theo nghi lễ phương trượng tại Tổ đình Chùa Thiên Quang và Tổ cho Pháp hiệu là Hạnh Khế

Đến tháng 07 năm Giáp Thân Tổ Nhơn Duệ phát nguyện tự thiêu, Cố chơn linh thọ tang Thầy 03 năm tại Chùa Thiên Quang, sau mãn tang Tổ Cố chơn linh bắt đầu con đường vân du học đạo. Đầu tiên tại Chùa Sùng Đức (Sài Gòn) (đường Hùng Vương ngày nay), sau đó đến Chùa Ấn Quang (Sài Gòn)

Vào năm 20 tuổi tức năm 1948 tại Di Linh- Đà Lạt được bà con Phật tử tín nhiệm thỉnh làm Trụ trì tại Chùa Tỉnh Giáo Hội Phật Giáo, thị trấn Di Linh,

Đến năm 1950, Cố chơn linh được bà con Phật tử thỉnh về công tác Phật sự tại tỉnh Hội Phật Giáo Kom Tum được 02 năm, do chiến tranh bùng nổ chùa chiền ở các tỉnh miền núi bị Pháp phá, thả bom dập nát. Cố chơn linh buộc phải trở về Tổ đình Thiên Quang.

Năm 1952 do lịnh tổng động viên nên Cố chơn linh phải hoàn tục đi lính theo luật định hiện thời, sau đó vì lý do sức khỏe Cố chơn linh trở về quê nhà làm thầy thuốc nuôi dưỡng Mẹ già

Năm 1953 Cố chơn linh kết hôn với Bà Nguyễn thị Trọng, quê quán tại thôn Thanh Minh, xã Diên Lạc, Huyện Diên Khánh. Khánh Hòa

Năm 1960 đi lính không quân và làm việc tại trung tâm huấn luyện không quân Nha Trang.

Năm 1964 do chiến tranh khốc liệt, các vùng dân cư ở nông thôn mất an ninh nên Cố chơn linh dời về sinh sống tại thành phố Nha Trang (40A Vân Đồn)để thuận tiện trong công việc. Suốt thời gian tại ngũ ở trung tâm huấn luyện không quân Nha Trang, Cố chơn linh được đề cử giữ chức vụ trưởng ban quân xa và được trong trung tâm giao giữ trụ trì chùa Long Vân tại không quân Nha Trang và làm phụ tá cho các Đại Đức nha tuyên úy Phật giáo đang công tác tại đây.

Sau năm 1975, mặc dù trong cuộc sống luôn luôn gặp nhiều khó khăn trở ngại, Cố chơn linh vẫn giữ lòng chánh tín Tam Bảo, sống cuộc sống đạm bạc thanh cao, song hành cùng các con, Cố chơn linh hết lòng chăm lo việc Phật sự tại địa phương, dồn cả tâm lực và trí lực hướng dẫn bà con Phật tử tu học tại Chùa Giác Hải, thuộc phường Phước Hòa thành phố Nha Trang, do đó được bà con tín nhiệm bầu làm Trưởng ban Nghi lễ và Phó ban đại diện Khuôn Hội Chùa Giác Hải, từ năm1976 đến năm 1988.

Năm 1989 được bầu làm Trưởng ban hộ tự Chùa Giác Hải kiêm Chánh Đại Diện, tại Chùa Giác Hải hầu như Cố chơn linh dành hết thời gian để lo về nghi lễ hướng dẫn giáo lý và xây dựng ngôi Pháp bảo, đưa đạo tràng mỗi ngày mỗi đi lên. Tuy thế cũng không quên hộ trợ các Chùa, khuôn hội, tịnh thất và niệm phật đường, nhất là gia đình Phật tử trong thành phố Nha Trang, để tấn tu trên con đường học đạo, cũng như trợ duyên một phần nào công việc phật sự cho quí Chư Tôn Đức, nên được chư Tôn Đức rất kính trọng, quý mến.

Cố chơn linh kết duyên với Bà Nguyễn Thị Trọng PD Tâm Hảo,  hạ sinh 08 người con 07 trai 01 gái, hiện tại có 05 người con trai xuất gia và đều đã thọ cụ túc giới (bao gồm:HT Thích Nguyên Trực, trụ trì Chùa Di Đà tại Sydney, Úc Châu và các vị đang tu học tại VN: Thích Chúc Long, Thích Chúc Đức, Thích Thiện Hạnh, Thích Chúc Xuân), còn 02 trai 01 gái ở ngoài đời, tất cả đều được sống chan hòa trong tình thương bao la vô bờ bến của Cố chơn linh và Mẹ.

Vì trần duyên cõi Ta bà đã mãn, vào lúc 02h15’ ngày 11- 04- Bính Tý (27– 05- 1996) Cố chơn linh xã báo Ta bà, an nhiên tại tư gia, 40A Vân đồn, phường Phước Hòa. Thành phố: Nha Trang- Tỉnh: Khánh hòa, thọ thế 68 tuổi.

Cố chơn linh mất đi là nỗi đớn đau và tổn thất lớn lao đối với gia đình không gì có thể bù đắp lại được.

(Hiếu tử Thích Chúc Xuân, biên soạn trước ngày di quan Cố chơn linh 01 ngày - Bính Tý – 1996)

 




httringhiem-qd
Trích lời đáp từ của đại lão Hòa Thượng: Thượng Trí Hạ Nghiêm.

(Chứng Minh đạo sư Tỉnh Hội Phật Giáo tỉnh Khánh Hòa)

 

Một sự việc xảy ra quá đột ngột, một con người dĩ nhiên vô thường sẽ đến nhưng mà nó đến với Chơn linh họ Nguyễn này rất đáng thương đáng kể, thôi thì sự việc ở đời này không phải mình muốn là được mà sự việc diễn ra thì nó cứ diễn. Như cái lời tiểu sử của Chơn linh thì Chơn linh là một người đã thành một phật tử ở đời, ở đạo, học đạo và được một vị Sư là Ngài Hòa Thượng Trừng Thông, chính những việc đó tôi được Chơn linh chỉ vẽ và cặn kẽ. Thì giờ đây giờ phút cuối cùng, riêng về cá nhân tôi thì mới ngày 24 tháng 03 này (Bính Tý – 1996) tại ngôi chùa tổ đình cổ tích Kim Sơn kia thì Chơn linh lên ngày giỗ Tổ ngày 24, tôi gặp Chơn linh đùng một cái thì nghe cách đây 03 hôm Chơnlinh ra đi không hề đau (bệnh) quá ư đột ngột. Nhưng mà ở trên đời không biết được đâu mỗi người có mỗi cái, như vậy là Chơn linh hưởng chỉ 02 cái: Sanh, Lão, Bệnh, Tử Chơn linh hưởng 02 cái Sanh và Tử, chứ không Lão và không Bịnh, giờ đây có nói gì cùng rồi rồi, Gia đình mất một người như thế nào? Khuôn Hội Giác Hải mất một người như thế nào? Bà con mất một người như thế nào? Bài tiểu sử nói cũng đầy đủ rồi.

Bây giờ, nhắc lại sự nghiệp của Chơn linh như vậy chỉ có một câu, câu này là chung cho tất cả những người xuất gia rồi không tu được trở về hoàn tục,“ Trần duyên dị đoạn, lợi cập nhân quần” câu đó là câu của Vua Tự Đức phê cho một ông Sư ở Chùa Linh Mụ mà không tu được đưa đơn lên xin hoàn tục. Nếu như mà Hương linh có 15 người con trai chắc chắn là cho đi tu 14,13 người, thì lợi cập nhơn quần là vậy chứ không còn gì hơn được. Thôi, giờ Gia đình chẳng biết làm sao hơn Vô thường ‘Sanh Tử sự đại Vô thường tấn tốc’ đến biết làm sao hơn, giờ Chư Tăng chúng tôi cũng hết lòng đối với một Chơn linh Phật tử.

Không ai tránh khỏi, chưa chắc già mà đã chết, mà chưa chắc trẻ mà đã sống, chưa chắc người bịnh đau mà đã chết, chưa chắc người khỏe mạnh mà đã sống, sự việc của con người diễn ra không ai biết được, không ai lường được, thôi thì cuối cùng chư Tăng Ni chúng tôi cầu nguyện chư Phật tiếp độ Chơn linh...



Hình ảnh Lễ huý nhật năm thứ 23

Cố Chơn Linh Ưu Bà Tắc NGUYỄN VĂN BỐN (11.4. Kỷ Hợi (2019)


Cu Si Nguyen Van Bon (1)Cu Si Nguyen Van Bon (2)Cu Si Nguyen Van Bon (3)Cu Si Nguyen Van Bon (4)Cu Si Nguyen Van Bon (5)Cu Si Nguyen Van Bon (6)Cu Si Nguyen Van Bon (7)Cu Si Nguyen Van Bon (8)Cu Si Nguyen Van Bon (9)Cu Si Nguyen Van Bon (10)Cu Si Nguyen Van Bon (11)Cu Si Nguyen Van Bon (12)Cu Si Nguyen Van Bon (13)Cu Si Nguyen Van Bon (14)Cu Si Nguyen Van Bon (15)Cu Si Nguyen Van Bon (16)Cu Si Nguyen Van Bon (17)Cu Si Nguyen Van Bon (18)Cu Si Nguyen Van Bon (19)Cu Si Nguyen Van Bon (20)Cu Si Nguyen Van Bon (21)Cu Si Nguyen Van Bon (22)Cu Si Nguyen Van Bon (23)Cu Si Nguyen Van Bon (24)Cu Si Nguyen Van Bon (25)Cu Si Nguyen Van Bon (26)Cu Si Nguyen Van Bon (27)Cu Si Nguyen Van Bon (28)Cu Si Nguyen Van Bon (29)Cu Si Nguyen Van Bon (30)Cu Si Nguyen Van Bon (31)Cu Si Nguyen Van Bon (32)Cu Si Nguyen Van Bon (33)Cu Si Nguyen Van Bon (34)Cu Si Nguyen Van Bon (35)Cu Si Nguyen Van Bon (36)Cu Si Nguyen Van Bon (37)Cu Si Nguyen Van Bon (38)Cu Si Nguyen Van Bon (39)Cu Si Nguyen Van Bon (40)Cu Si Nguyen Van Bon (41)Cu Si Nguyen Van Bon (42)Cu Si Nguyen Van Bon (43)Cu Si Nguyen Van Bon (44)Cu Si Nguyen Van Bon (45)Cu Si Nguyen Van Bon (46)Cu Si Nguyen Van Bon (47)Cu Si Nguyen Van Bon (48)Cu Si Nguyen Van Bon (49)Cu Si Nguyen Van Bon (50)Cu Si Nguyen Van Bon (51)Cu Si Nguyen Van Bon (52)Cu Si Nguyen Van Bon (53)Cu Si Nguyen Van Bon (54)Cu Si Nguyen Van Bon (55)Cu Si Nguyen Van Bon (56)Cu Si Nguyen Van Bon (57)Cu Si Nguyen Van Bon (58)Cu Si Nguyen Van Bon (59)Cu Si Nguyen Van Bon (60)Cu Si Nguyen Van Bon (61)Cu Si Nguyen Van Bon (62)Cu Si Nguyen Van Bon (63)Cu Si Nguyen Van Bon (64)Cu Si Nguyen Van Bon (65)Cu Si Nguyen Van Bon (66)Cu Si Nguyen Van Bon (67)Cu Si Nguyen Van Bon (68)Cu Si Nguyen Van Bon (69)Cu Si Nguyen Van Bon (70)Cu Si Nguyen Van Bon (71)Cu Si Nguyen Van Bon (72)Cu Si Nguyen Van Bon (73)Cu Si Nguyen Van Bon (74)Cu Si Nguyen Van Bon (75)Cu Si Nguyen Van Bon (76)Cu Si Nguyen Van Bon (77)Cu Si Nguyen Van Bon (78)Cu Si Nguyen Van Bon (79)Cu Si Nguyen Van Bon (80)Cu Si Nguyen Van Bon (81)Cu Si Nguyen Van Bon (82)Cu Si Nguyen Van Bon (83)Cu Si Nguyen Van Bon (84)Cu Si Nguyen Van Bon (85)Cu Si Nguyen Van Bon (86)Cu Si Nguyen Van Bon (87)Cu Si Nguyen Van Bon (88)Cu Si Nguyen Van Bon (89)Cu Si Nguyen Van Bon (90)Cu Si Nguyen Van Bon (91)Cu Si Nguyen Van Bon (92)Cu Si Nguyen Van Bon (93)Cu Si Nguyen Van Bon (94)Cu Si Nguyen Van Bon (95)Cu Si Nguyen Van Bon (96)Cu Si Nguyen Van Bon (97)Cu Si Nguyen Van Bon (98)Cu Si Nguyen Van Bon (99)Cu Si Nguyen Van Bon (100)Cu Si Nguyen Van Bon (101)Cu Si Nguyen Van Bon (102)Cu Si Nguyen Van Bon (103)Cu Si Nguyen Van Bon (104)Cu Si Nguyen Van Bon (105)Cu Si Nguyen Van Bon (106)Cu Si Nguyen Van Bon (107)Cu Si Nguyen Van Bon (108)Cu Si Nguyen Van Bon (109)Cu Si Nguyen Van Bon (110)Cu Si Nguyen Van Bon (111)Cu Si Nguyen Van Bon (112)Cu Si Nguyen Van Bon (113)Cu Si Nguyen Van Bon (114)Cu Si Nguyen Van Bon (115)Cu Si Nguyen Van Bon (116)Cu Si Nguyen Van Bon (117)Cu Si Nguyen Van Bon (118)Cu Si Nguyen Van Bon (119)Cu Si Nguyen Van Bon (120)Cu Si Nguyen Van Bon (121)Cu Si Nguyen Van Bon (122)Cu Si Nguyen Van Bon (123)Cu Si Nguyen Van Bon (124)Cu Si Nguyen Van Bon (125)Cu Si Nguyen Van Bon (126)Cu Si Nguyen Van Bon (127)Cu Si Nguyen Van Bon (128)Cu Si Nguyen Van Bon (129)Cu Si Nguyen Van Bon (130)Cu Si Nguyen Van Bon (131)Cu Si Nguyen Van Bon (132)Cu Si Nguyen Van Bon (136)Cu Si Nguyen Van Bon (137)Cu Si Nguyen Van Bon (138)Cu Si Nguyen Van Bon (139)Cu Si Nguyen Van Bon (140)Cu Si Nguyen Van Bon (141)Cu Si Nguyen Van Bon (142)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/06/2011(Xem: 7230)
Ngài họ Nguyễn húy là Hữu Kê, dòng họ của Đại thần Nguyễn Trãi. Nguyên quán thuộc Tông sơn Gia miêu Ngoại trang, tỉnh Thanh Hóa. Ngài thọ sanh năm Nhâm Tý (1912), tại làng Nguyệt Biều, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên. Vốn thọ sanh trong gia đình vọng tộc, quý phái, thích lý luận Nguyễn Hữu Độ.
24/06/2011(Xem: 4239)
Ngài Mật Thể, pháp danh Tâm Nhất, pháp tự Mật Thể, tên thật là Nguyễn Hữu Kê, sinh năm 1912 ở làng Nguyệt Biều, quận Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên. Chánh quán huyện Tống Sơn, Gia Miêu ngoại trang, tỉnh Thanh Hóa, thuộc dòng Thích Lý của Cụ Nguyễn Hữu Độ. Gia đình Ngài qui hướng đạo Phật, cụ thân sinh và người anh ruột đều xuất gia.
23/06/2011(Xem: 4875)
Đọc Thánh Đăng Ngữ Lục, do Sa môn Tánh Quảng, Thích Điều Điều đề tựa trùng khắc, tái bản năm 1750, ta thấy đời Trần có năm nhà vua ngoài việc chăn dân, họ còn học Phật, tu tập và đạt được yếu chỉ của thiền, như vua Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông và Trần Minh Tông. Và sự chứng ngộ của các Thiền sư đời Trần thì không thấy đề cập ở sách ấy, hoặc có đề cập ở những tư liệu khác mà hiện nay ta chưa phát hiện được, hoặc phát hiện thì cũng phải tra cứu và luận chứng dài dòng rồi mới kết đoán ra được.
23/06/2011(Xem: 5642)
Đọc sử Phật giáo Việt Nam, hẳn chúng ta đều biết nước mình có một ông vua đi tu ngộ đạo, đó là vua Trần Nhân Tông. Ngài làm vua trong thời gian nước nhà đang bị quân Mông Cổ đem đại quân sang xâm lấn nước ta lần thứ ba.
22/06/2011(Xem: 6248)
Trong sáu thập niên qua, TIME đã không ngừng ghi chép lại những vinh quang cùng khổ nhọc của Á châu. Trong số đặc biệt kỷ niệm thường niên hôm nay, chúng tôi muốn bày tỏ lòng kính trọng của mình đến những nhân vật nổi bật đã góp phần vào việc hình thành nên thời đại chúng ta. Những thập niên xáo động nhất của một lục địa đông dân nhất trên trái đất này đã sản sinh ra hàng loạt những nhân vật kiệt xuất. Trong sáu mươi năm qua, kể từ khi TIME bắt đầu cho xuất bản ấn bản Á Châu, chúng tôi đã có cái đặc ân là được gặp gỡ đa số những nhân vật ngoại hạng này –theo dấu cuộc vận động hay trên chiến trường, trong phòng hội hay trong phòng thí nghiệm, tại cơ sở sản xuất hay tại phim trường.
16/06/2011(Xem: 3864)
Tôi có duyên lành gặp được ngài một lần khi ngài đến thăm Hòa thượng chùa Đông Hưng, bổn sư của tôi, cũng là y chỉ sư của Hòa thượng Quảng Thạc, một để tử xuất gia của ngài khi còn ở đất Bắc. Cung cách khiêm cung, ngài cùng Hòa thượng tôi đàm đạo về quá trình tu tập cũng như Phật học, hai ngài đã rất tâm đắc về chí nguyện giải thoát và cùng nhau kết luận một câu nói để đời : “Mục đích tu hành không phải để làm chính trị”. Cũng câu nói này, khi chia tay chư tăng miền Nam, ngài đã phát biểu với hàng pháp lữ Tăng ni đưa tiễn. Khi sưu tập tư liệu về cuộc đời của ngài, tôi may mắn gặp được các bậc tri thức cao đồ của ngài kể lại. Nay, nhân có cuộc hội thảo về phong trào chấn hưng Phật giáo miền Bắc và công hạnh của ngài, tôi xin được góp thêm đôi điều.
14/06/2011(Xem: 5303)
Thiền sư PHÁP THUẬN (Bính Tý 918): Thiền sư đời Tiền Lê, thuộc dòng thiền Tỳ-Ni-Đa-Lưu Chi, không rõ gốc gác quê quán và tên thật, chỉ biết rằng Sư họ Đỗ, xuất gia từ thuở nhỏ ở chùa Cổ Sơn (Thanh Hóa), sau theo học đạo Thiền sư Phù Trì ở chùa Long Thọ, nổi tiếng là uyên thâm đức độ. Tương truyền rằng chính Sư đã dùng nghệ thuật phù sấm, làm cố vấn giúp vua Lê Đại Hành nắm quyền bính, dẹp yên được hỗn loạn trong triều cuối đời nhà Đinh, được vua Lê vô cùng trọng vọng. Năm 990 niên hiệu Hưng Thống thứ 2, Sư không bệnh mà viên tịch, thọ 76 tuổi, để lại cho đời các tác phẩm: “Bồ Tát sám hối văn”, “Thơ tiếp Lý Giác”, và một bài kệ.
14/06/2011(Xem: 5357)
• Thiền sư Chân Không(Bính Tuất -1046): Sư họVương, thế danh Hải Thiềm, quê quán ở làng Phù Đổng (nay là Tiên Sơn-Bắc Ninh), xuất thân trong một gia đình quý tộc. Lúc thân mẫu của ông mang thai, cha ông nằm mộng thấy một vị tăng Ấn Độ trao cho cây tích trượng, sau đó thì ông ra đời. Mồ côi cha mẹ từ thuở niên thiếu, ông siêng chăm đọc sách không màng đến những chuyện vui chơi. Năm 20 tuổi ông xuất gia, rồi đi ngao du khắp nơi để tìm nơi tu học Phật Pháp. Nhân duyên đưa đẩy cho Sư đến chùa Tĩnh Lự ở núi Đông Cứu (Gia Lương-Hà Bắc), nghe Thiền sư Thảo Nhất giảng kinh Pháp Hoa mà ngộ đạo, được nhận làm đệ tử, sớm tối tham cứu thiền học, và được sư thầy truyền tâm ấn, thuộc dòng thiền Tì-ni-đa Lưu -chi, thế hệ thứ 16. Sau, Sư lên núi Phả Lại, trại Phù Lan (nay thuộc huyện Mỹ Văn-Hưng Yên) làm trụ trì chùa Chúc Thánh, ở suốt 20 năm không xuống núi để chuyên trì giới luật, tiếng thơm đồn xa đến cả tai vua.
13/06/2011(Xem: 13036)
Ôi, trong giáo pháp Phật đà của ta, việc trọng đại nhất là gì ? Con người sinh ra không từ cửa tử mà đến, chết không vào cửa tử mà đi. Thế nên người nằm non ở tổ, bỏ ngủ quên ăn, chẳng tiếc thân mạng, đều vì việc lớn sinh tử. Ở thời giáo suy pháp mạt này mà có người vì việc lớn sinh tử như Hòa thượng Liễu Quán, thật là hy hữu.
05/06/2011(Xem: 11597)
Ngôi chùa nhỏ nằm khiêm tốn trong khoảng đất rộng đầy cây trái. Buổi tối, mùi nhang tỏa ra từ chánh điện hòa với mùi thơm trái chín đâu đó trong vườn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567