Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Nữ Sĩ Phạm Lam Anh - Người Mở Đầu Văn Học Xứ Quảng

28/03/201922:09(Xem: 7828)
Nữ Sĩ Phạm Lam Anh - Người Mở Đầu Văn Học Xứ Quảng
cogai_aodai_painting1
NỮ SĨ PHẠM LAM ANH- NGƯỜI MỞ ĐẦU VĂN HỌC XỨ QUẢNG
Châu Yến Loan

 

Phạm Lam Anh là con gái duy nhất của danh thần Phạm Hữu Kính. Bà tên là Phạm Thị Khuê, tự Lam Anh, hiệu Ngâm Si, sinh vào khoảng nửa đầu thế kỷ XVIII, người làng Mông Nghệ, tổng Mông Lĩnh, huyện Diên Khánh, tỉnh Quảng Nam. Huyện Diên Khánh thuộc phủ Điện Bàn có hai tổng là Uất Lũy và Mông Lĩnh, thời Chúa Nguyễn, làng Mông Nghệ nằm trong tổng Mông Lĩnh của huyện Diên Khánh (Phủ Biên Tạp lục của Lê Quý Đôn, trang 82).  Năm 1823 huyện Diên Khánh đổi tên thành huyện Diên Phước.

Làng Mông Nghệ, tổng Mông Lĩnh, huyện Diên Khánh, sau này trở thành làng Mông Nghệ, tổng Xuân Phú, huyện Quế Sơn (nay là xã Quế Phú, huyện Quế Sơn).

Theo Đại Nam liệt truyện (quyển 5) Phạm Hữu Kính có 3 người con trai: Quả Nghị, Tồn Thành, Lạc Thiện và một người con gái là Lam Anh. Trong lúc làm quan ông nổi tiếng thanh liêm, chính trực, sống đạm bạc, không cho người đến nhà riêng yết kiến để tránh chuyện quà cáp biếu xén. Ông lại khéo xét đoán, hay phát hiện những việc sai trái, tìm ra những điều bí ẩn đằng sau các vụ án, rất được nha lại và nhân dân kính phục. Ông thường phụng mệnh đi tuần xét quan lại các doanh, xem xét tình hình thực tế. Đối với ông “pháp bất vị thân” ông không vì tình riêng mà xem nhẹ pháp luật. Con trưởng của ông nhận đút lót của người ta, bị ông xử tử hình. Nha lại đều can ngăn, ông nói: “Thằng con ngu như heo này làm ô nhục gia phong để sống có ích gì! Hơn nữa, phép nước trờ trờ ở đó lệ nào lấy tư bỏ công à?” Đến lúc án dâng lên, được Chúa tha, nhưng con trai ông cuối cùng vì sợ hãi mà chết!

Bà Phạm Lam Anh ngay từ khi còn nhỏ đã rất xinh xắn, nhanh nhẹn, thông minh, ham học và có tài  làm thơ.  Bà được thân phụ yêu quý và mời nhân sĩ Nguyễn Dưỡng Hạo về nhà dạy học.

Nguyễn Dưỡng Hạo hiệu Phúc Am, người huyện Duy xuyên , phủ Thăng Hoa, tỉnh Quảng Nam, sống vào thời Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát (1714 – 1765) và Định Vương Nguyễn Phúc Thuần (1754 – 1777),  là người nổi tiếng tài hoa và hay thơ. Phạm Hữu Kính đi làm quan, ở nhà Nguyễn Dưỡng Hạo cùng Phạm Lam Anh thường hay làm thơ đối đáp qua lại với nhau do đó nảy sinh tình cảm, hai người  yêu nhau ngày càng thắm thiết.

Phạm Hữu Kính trở về biết sự tình giận lắm định đem con gái dìm xuống sông. Dưới thời phong kiến, hôn nhân do cha mẹ định đoạt, trai gái không được tự do yêu nhau, huống hồ Nguyễn Dưỡng Hạo và Phạm Lam Anh lại là thầy trò. Gia đình Phạm Hữu Kính nổi tiếng gia giáo nghiêm khắc trong vùng, lẽ nào ông dễ dàng chấp nhận cho con gái làm trái lại những quy định của lễ giáo phong kiến đương thời? May nhờ có bạn bè khuyên giải ông mới tha tội cho con gái. Cuối cùng ông cũng chấp nhận gả Phạm Lam Anh cho Nguyễn Dưỡng Hạo. Hai vợ chồng thường cùng nhau xướng họa thơ  văn và sáng tác tập “Chiến cổ Đường thi” lưu hành ở đời.

Nữ sĩ Phạm Lam Anh rất nổi tiếng về thơ và được xem là người mở đầu cho văn học xứ Quảng. Song tác phẩm của bà qua thời gian đã bị thất truyền, hiện nay chỉ còn có ba bài thơ chữ Hán làm theo thể Thất ngôn tứ tuyệt viết về  ba danh thần hào kiệt của Trung Quốc mà cuộc đời đầy bi kịch vì họ sinh bất phùng thời, đó là: Khuất Nguyên, Kinh Kha, Hàn Tín và một bài thơ chữ Nôm làm theo thể Thất ngôn bát cú là bài: Vịnh cảnh gần sáng.

Nhận xét về tập thơ “Chiến cổ Đường thi” sách Đại Nam liệt truyện tiền biên quyển 5 tập I (bản dịch của Viện Sử học) có ghi : “ Trong tập toàn là những câu bắt bẻ cổ nhân! Nhất là thơ Lam Anh thì lại nhiều câu cổ kính . Tỉ như vịnh Khuất Nguyên có hai câu rằng:

Cô phẫn khí thành thiên khả vấn,

Độc tinh nhân khứ quốc bằng không.”

 

Dịch nghĩa: 

Cô đơn mang khí phẫn uất, chỉ có thể hỏi trời,

Chỉ có một người tỉnh lại bỏ đi, đất nước trống không.

Hai câu thơ này được hậu thế lưu truyền và cho là hay nhất.

Trong bài thơ “ Kinh Kha” bà đã vạch rõ nguyên nhân thất bại của người tráng sĩ vì ý người không bằng ý trời, mưu sự tại nhân mà thành sự tại thiên:

 

         “ Kế xảo kỳ như thiên ý xảo

          Đồ cùng phiên sử tráng tâm cùng”

          Dịch nghĩa:

           Mưu khéo chẳng bằng ý trời khéo

           Đường cùng chí lớn cũng tâm cùng.

 

Giọng thơ của Phạm Lam Anh trong ba bài thất ngôn tứ tuyệt nói trên rất hùng hồn mà thống thiết thể hiện tấm lòng của bà đối với những người anh hùng thất cơ lỡ vận.

Về thơ Nôm, bài “Vịnh cảnh gần sáng” chứng tỏ tài năng của Phạm Lam Anh không kém gì Hồ Xuân Hương.

Vịnh cảnh gần sáng

Một giải thương lang lộn mắt mèo,

Xóm chài mới dậy đuốc leo heo.

Lằn kêu thức chúa chầu sân phụng,

Gà gáy khuyên chồng dõi dấu cheo.

Ải sói Thường Quân vừa cất bước,

Thuyền tên Gia Cát vội phăng neo.

Phương đông chửa lố vừng con ác,

Cửa Khổng nho sinh nhóm tựa bèo.

 

Tương truyền bài thơ này đã đạt giải nhất trong cuộc thi thơ tại Dinh Quảng Nam thời bấy giờ. Bài thơ phải đáp ứng những qui định khắt khe về vần: Mèo, Heo, Cheo, Neo, Bèo và bắt buộc mỗi câu thơ phải có tên một thú vật nên rất khó, vậy mà nữ sĩ Lam Anh đã sáng tác một bài thơ rất hay.

Nữ sĩ Lam Anh được nhiều người trong cả nước ca tụng, họ cho rằng thời bấy giờ chỉ có hai nữ sĩ xuất sắc, ở miền Bắc là Hồ Xuân Hương và miền Nam là Phạm Lam Anh:

Khởi duy tài điệu siêu Hồ, Phạm

Ban, Tạ ư kim hữu thế nhân

Tiến Sĩ Phạm Liệu, người đứng đầu của Ngũ phụng tề phi, nổi tiếng là người hay chữ nhất của Quảng Nam đã khen ngợi thơ của bà Phạm Lam Anh:  “Trong giới nữ lưu từ trước đến giờ ở xứ Quảng này không có ai thơ hay bằng bà Phạm”.
 

Còn các sứ giả nhà Thanh mỗi khi đến Đàng Trong giao tế đều muốn gặp bà xướng họa thơ ca. Về sau khi làm thơ đề tặng “Diệu Liên thi tập” của nữ sĩ Mai Am, con vua Minh Mạng, họ còn nhắc tới danh bà:

“Nguyệt Đình, Huệ Phố tài danh thạnh

Cảnh thuyết thi viên hữu Phạm, Hồ.”

Quảng Nam nổi tiếng là đất văn chương, nhiều nhân tài, nhưng người mở đầu cho văn chương xứ Quảng không phải là một văn nhân khoa bảng mà lại là một nữ sĩ. Thơ của Phạm Lam Anh ý thơ khí khái, lời thơ hùng hồn, dí dỏm tiêu biểu cho tâm hồn và tính cách của con người xứ Quảng cũng như  tính chất văn chương của vùng đất này.
                                                                            

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
21/03/2012(Xem: 6448)
Hòa Thượng Thích Trí Thủ là vị Thầy của nhiều thế hệ học tăng của các Phật học viện Báo Quốc Huế, Phổ Đà - Đà Nẵng, Hải Đức - Nha Trang, Quảng Hương Già Lam - Sài Gòn. Cuộc đời của Ngài phần nhiều cống hiến cho việc đào tạo tăng tài và sự nghiệp hoằng pháp cho Đạo Phật Việt Nam hơn là những lãnh vực phật sự khác.
10/03/2012(Xem: 7371)
Hòa thượng thế danh Dương Văn Y, sinh ngày 23 tháng Chạp năm Tân Tị (1881), nhằm vào năm thứ 33 đời vua Tự Đức triều Nguyễn tại xã Bình An, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam. Do túc duyên nhiều đời nên Ngài sinh vào gia đình chánh tín Tam Bảo. Thân phụ là Cụ ông Dương Thi An, pháp danh Chương Thái, hiệu Quảng Liên và Thân mẫu là Cụ bà Đỗ Thị Toại. Tuổi đồng ấu, Hòa thượng có tướng mạo rất đoan nghiêm, thông minh khác chúng. Lên 10 tuổi, Ngài có ý định xuất gia nên song thân đưa Ngài đến chùa Hội Phước tại xã Thanh Chiêm, huyện Điện Bàn, Quảng Nam để tu học với Hòa thượng Như Lý-Hoằng Khâm.
10/03/2012(Xem: 7244)
Thời gian trôi nhanh như bóng câu qua cửa sổ! Mới hôm nào mà Hòathượng Thích Trí Thủ đã tiễn chân tôi ra sân bay đi Hà Nội để giảng cho trường Cao cấp Phật học tại chùa QuánSứ, mà bây giờ đã gần đến ngày giỗ đầu của Hòa Thượng.
09/03/2012(Xem: 17385)
Tăng bảo, nương vào phần tự giác của pháp làm cơ sở để kiến lập xã hội hòa bình, nhân gian Tịnh độ... Thích Đồng Bổn
02/03/2012(Xem: 5501)
Hòa thượng thế danh Trần Văn Chín, sinh năm Canh Ngọ (1930) tại làng Ái Nghĩa, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam. Thân phụ là cụ ông Trần Văn Hoàng pháp danh Chơn Tấn và thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Chung (khi Ngài viên tịch thì song thân vẫn còn tại thế). Sinh ra trong một gia đình có truyền thống Phật giáo nên Ngài sớm có ý chí thoát tục tu đạo. Lúc lên 12 tuổi, Ngài đến chùa Phổ Khánh trong làng và tỏ ra quyến luyến không muốn về. Nhưng vì là con trai duy nhất trong gia đình nên Ngài phải trở về nhà lo bổn phận môn đăng định tỉnh.
05/02/2012(Xem: 5772)
Sáng ngày 24 tháng Giêng năm Giáp Ngọ (23.02.2014), thượng tọa Thích Quảng Tâm, Ủy viên Ban Nghi lễ GHPGVN tỉnh Khánh Hòa, trụ trì chùa Thanh Hải, xã Cam Thịnh Đông, thành phố Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa cùng chư tôn đức môn đồ pháp quyến, thân tộc, đệ tử và phật tử đạo tràng chùa Linh Thứu, chùa Linh Quang (Nha Trang) đã thành kính tưởng niệm húy nhật lần thứ 26 cố Hòa thượng Bổn sự Thích Pháp Viện.
18/01/2012(Xem: 11494)
HT Thích Nguyên Siêu trụ trì Chùa Phật Đà, San Diego và Tu Viện Pháp Vương, Escondido, Hoa Kỳ
25/12/2011(Xem: 9807)
Thành kính tưởng niệm HT Thích Trí Hiền
13/12/2011(Xem: 7022)
Mùa hè năm ấy có lẽ là một mùa hè nóng bức oi ả nhất của thập niên tám mươitại miền Bắc. Trại giam Ba Sao, Nam Hà thuộc tỉnh Hà Nam Ninh như nằm yên dưới sức nóng như thiêu đốt, ngay cả về đêm cái nóng như vẫn còn âm ỉ, mọi thứ như tỏa ra hơi nóng – những bức tường, những sàn lót gạch hung hung đỏ, cái sân tráng xi măng
13/10/2011(Xem: 5580)
Thế giới, với người ngộ đạo, đã được lộn trái trở lại: sanh tử lộn ngược thành Niết Bàn. Đời sống có ý nghĩa là không tịch. Đời sống là sự biểu hiện của tính sáng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]