Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Ni trưởng Như Thanh - sen hồng một đóa

04/03/201907:40(Xem: 5665)
Ni trưởng Như Thanh - sen hồng một đóa




ni truong nhu thanh 3
Ni trưởng Như Thanh như một đóa sen hồng vượt ra khỏi mặt nước với vẻ đẹp cao quí của một bậc giác ngộ. Tư tưởng nhập thế cứu khổ của người đã để lại cho đời một tấm gương sáng. Ni trưởng đã vân du khắp mọi miền đất nước, để thuyết giảng không hề mệt mỏi.


Lò lửa sen hồng mấy kẻ hay

Mây che nguyệt rạng chẳng phô bày
Ngọc lành ẩn đá không phai sắc
Bể thánh nguồn chơn mặc tỉnh say
.

 

Bốn câu thơ trên là của Ni trưởng Như Thanh, một bậc tài năng xuất chúng được sự ngưỡng mộ và khâm phục trong ni giới Phật giáo Việt Nam. Như ngọn đuốc sáng bừng trong đêm tối, Ni trưởng là một bậc chân tu vì đạo quên mình, sanh năm Tân Hợi 1911, tại huyện Thủ đức, Gia định.

 

Thiện duyên đưa đến, Ni trưởng xuất gia năm 22 tuổi, đệ tử của Tổ Pháp Ấn, chùa Phước Tường, Thủ đức.

Với trí thông minh và lòng hiếu học, cộng thêm nhẫn lực vô biên, Ni trưởng đã đạt được nhiều thành quả trên đường tham học Phật pháp từ Nam ra đến Huế và Hà nội.

 

Năm 1972, Ni trưởng được Giáo hội giao trọng trách Vụ trưởng Ni bộ Bắc tông, và giữ vai trò Cố vấn tối cao trong các nhiệm kỳ kế tiếp. Ni trưởng viên tịch năm 1999, để lại bao thương tiếc cho hàng đệ tử xuất gia và tại gia.

 

Vài trang giấy không đủ nói lên hết được đạo hạnh và gương sáng của người, nhưng để chia sẻ với những người đang học Phật và tu Phật, những lời dạy quí báu của người ghi lại trong quyển sách “Cuộc đời và sự nghiệp của Sư trưởng Như Thanh”, xem như một nhân duyên thiện lành đặc biệt.

 

Thành kính đảnh lễ giác linh Ni trưởng với tấm lòng tri ân và niềm cảm phục của hàng hậu học.

 

Ni Truong Nhu Thanh (1)Ni Truong Nhu Thanh (2)Ni Truong Nhu Thanh (3)Ni Truong Nhu Thanh (4)Ni Truong Nhu Thanh (5)Ni Truong Nhu Thanh (6)Ni Truong Nhu Thanh (7)Ni Truong Nhu Thanh (8)Ni Truong Nhu Thanh (9)Ni Truong Nhu Thanh (10)Ni Truong Nhu Thanh (11)Ni Truong Nhu Thanh (12)Ni Truong Nhu Thanh (13)Ni Truong Nhu Thanh (14)Ni Truong Nhu Thanh (15)Ni Truong Nhu Thanh (16)Ni Truong Nhu Thanh (17)Ni Truong Nhu Thanh (18)Ni Truong Nhu Thanh (19)Ni Truong Nhu Thanh (20)Ni Truong Nhu Thanh (21)Ni Truong Nhu Thanh (22)Ni Truong Nhu Thanh (23)Ni Truong Nhu Thanh (24)Ni Truong Nhu Thanh (25)

Hình ảnh lễ húy nhật Ni Trưởng Như Thanh năm 2019
tại Chùa Huê Lâm, Sàigòn

 



Nếu như xưa kia, khi đồng ý cho bà di mẫu Maha baxà bađề (Kiều Đàm) cùng 500 người nữ xuất gia trong giáo pháp, đức Thế tôn tuyên báo rằng chánh pháp vì vậy sẽ diệt vong sớm 500 năm. Không ai có thể đoán rằng chánh pháp tồn tại bao lâu để làm bài toán trừ 500 năm đó.

 

Khi đề cập đến quá trình lịch sử đức Phật không cho phép người nữ xuất gia một cách dễ dàng, Ni trưởng đã có một cái nhìn tuệ giác như sau:

 

“Vì trách nhiệm của người xuất gia rất nặng nề, khó nhọc, mà phạm hạnh cũng khó thực hành, bởi thế đức Phật không hứa cho người nữ xuất gia một cách dễ dàng.

 

Đây là bổn ý của đức Phật muốn mở rộng con đường hóa đạo cho tất cả người nữ sau này.

 

Bởi sự giáo dục của người nữ thời ấy chưa được phát triển, nên họ ở trong thế gian bị nhiều sự chướng ngại buộc ràng, làm cho tâm tính không được sáng tỏ, ý chí không được sâu rộng.

 

Đức Phật vì muốn cho hàng Tỳ kheo ni chứng đến các pháp thiệt tánh mà Ngài đem tâm bình đẳng phương tiện dẫn dắt, khiến cho mọi người đều được tăng trưởng thiện báo, tiêu trừ ác nghiệp, sửa đổi phong hóa ở thế gian trở nên tốt đẹp.

 

Hàng Tỳ kheo ni ở trong chánh pháp của đức Phật gặp được cơ hội mở mang, truyền bá, làm cho ánh sáng Phật pháp được chói rạng, tạo công đức vô lượng”.

 

Đạo Phật đã đi sâu vào cuộc đời. Đạo Phật không phải là lý thuyết suông để bàn luận. Đạo là sống và hành. Đạo là sự chân thật, sáng suốt, đậm đà và thanh thoát.

 

Để dẫn dắt người nữ tu vượt qua được bản tánh nhi nữ thường tình, nhờ khép mình trong giới pháp, vượt qua mọi trở ngại thuận nghịch bằng khả năng tu chứng, thì người nữ tu vẫn có thể phụng sự và xiển dương Chánh pháp.

 

Ni trưởng chủ trương một căn bản đào tạo ni tài, lập nguyện kiên cường cho ni chúng, trao truyền tam học Giới, Định, Tuệ.

 

Ni trưởng dạy rằng:

1) Giới học là giềng mối của người tu Phật. 
2) Định học là phép tắc điều phục tâm trí. 
3) Tuệ học là năng lực bạt trừ nghiệp chướng si ái.

 

Ni trưởng Như Thanh đã trải thân phục vụ đạo pháp, khiến cho pháp âm truyền bá khắp nơi. Người là một bậc Ni trưởng đạo cao, đức trọng, làu thông kinh luật, trước tác, dịch thuật nhiều tác phẩm có giá trị.

 

Ni trưởng đã dẫn dắt hàng ni chúng hậu học thoát khỏi những mặc cảm tự ti, sợ hãi, nhút nhát và khai sáng trí tuệ cho hàng đệ tử. Công đức của người thực vô lượng, vô biên.

 

Ni trưởng luôn luôn quan niệm, để chia sẻ gánh nặng hoằng pháp, người xuất gia, không phân biệt tăng hay ni, đều có trách nhiệm góp phần công đức để đền đáp công ơn sâu dầy của đức Thế tôn.

 

Khi nói lên phạm hạnh cao quí của hàng xuất gia, trong tác phẩm “Giới đức khiêm ưu”, Ni trưởng đã viết như sau:

 

Phẩm hạnh cao quí của tăng già là do công phu tu dưỡng gồm đủ sự lý, đối với tất cả chúng sanh, tìm đủ các chước phương tiện làm lợi ích cho mọi người, như khát thì cho uống, đói cho cơm ăn, bịnh cho thuốc uống, lạnh cho áo ấm, gặp sợ sệt giúp đỡ an ủi hết sợ sệt, thiếu trí tuệ giúp đỡ mong cho tâm trí trở nên sáng suốt, cho đến bỏ mình cho cọp đói ăn cũng gọi là đức hỷ xả bố thí.

 

Trong hoàn cảnh nhịn khổ chịu nhọc, trăm phen bẻ gảy mà lòng vẫn dai bền, việc khó nhọc là cố gắng học tập, việc khó làm cố gắng siêng làm. Dẫu có người khuấy rối, dằn ép cũng chẳng căm tức, giận hờn, hình dung vẫn tự nhiên, chẳng tác sắc nóng nảy bứt rứt”.

 

Với khả năng, đức độ, tâm từ bi của người đã tạo cho hàng ni chúng xuất gia tiến trên con đường giác ngộ và giải thoát.

 

Sự tương kính nhau như tỷ muội, dùng tâm niệm bình đẳng đối xử, phẩm hạnh của người tu trong chúng nên tự xét lại mình để chừa bỏ lỗi lầm, thay vì phóng tâm  nghĩ đến hơn thua, phải quấy, đúng sai, được mất, biểu lộ đức tính hiền từ, lễ độ, khiêm cung, khoan dung, hòa lạc, khiến người xung quanh sanh lòng quí mến như hoa sen nở hương thơm ngát.

 

Huynh đệ cùng nhau gắng học hành
Lời qua tiếng lại nhớ đừng tranh
Quyết lòng sửa tánh cho thanh tịnh
Xuân đến đời ta đặng tiếng thanh.
(Hoa Đạo)

 

Trải qua trong cõi phù sinh
Học rành chữ nhẫn hữu hình ngại chi
Nhẫn là phước quả từ bi
Giúp ta thâm ngộ vô vi đạo mầu.
(Hoa Đạo)

 

Lời thơ của người là khuôn vàng thước ngọc. Thơ văn của một bậc chân tu đầy đạo tình đạo vị, người đọc cần lắng lòng tỉnh ngộ. Ni trưởng còn khuyên nhắc về trách nhiệm của Tỳ kheo ni về sự nghiệp hoằng pháp như sau:

 

1) Xuất gia vì mục tiêu giải thoát tự thân và tha nhân.
2) Thiết tha cầu học chánh pháp giữa biển sống vô thường.
3) Thể hiện nghiêm túc nếp sống phạm hạnh Giới-Định-Tuệ, 
4) Phát triển văn huệ, tư huệ và tu huệ.
5) Tích cực tiếp dẫn hàng hậu học.
6) Thao thức vì sự nghiệp độ sanh, hưng khởi chánh pháp.

 

Ni trưởng là một vị Bồ tát dấn thân từ ni giới, mang tâm niệm cứu khổ chúng sanh, thức tỉnh mọi người quay về với tình thương vô hạn trong giới pháp của đức Thích ca mâu ni.

 

Dòng pháp nhũ của Ni trưởng Như Thanh là dòng nước cam lộ của đức Quán thế âm, làm dịu mát những nhiệt não của thế gian, khơi dậy ngọn đèn trí tuệ, không bị tham sân si trói buộc, sai khiến, hành xử lợi mình lợi người, sống với tâm Phật không còn bị vô minh che lấp.

 

Trong tác phẩm “Hành Bồ Tát Đạo”, Ni trưởng đã đem tâm huyết của mình để truyền trao lại cho người xuất gia cũng như tại gia. Ni trưởng viết:

 

Nếu trong một lúc nào đó, chúng ta lắng yên được tâm thức, để cho nó vắng lặng rỗng rang, chẳng khởi lên một niệm suy tính so lường, thì tất nhiên trong sát na ấy, chúng ta nhìn rõ được bản lai diện mục của mình, thấy rõ chân tâm thể tánh của mình vốn bất sanh bất diệt, nó xóa bỏ mọi ranh giới ngã và nhơn, thiện và ác.

 

Trong giây phút linh diệu ấy, tâm thức chúng ta bổng nhẹ nhàng, cõi lòng mở rộng với muôn ngàn thương yêu, tình cảm trong sáng dịu dàng, nó chẳng phải là thứ tình cảm hạn hẹp, phát sinh từ lòng ái dục, mà phát xuất từ tâm bi, nên nó bao la, tươi nhuần và bình đẳng, vô phân biệt.

 

Bấy giờ cái nhìn của chúng ta đối với vạn vật cũng trong suốt và bình đẳng như thế.

 

Đây là giây phút mà tâm ta vô trụ, không vướng mắc, hoàn toàn tự do.

 

Nếu sống mãi với tâm vô trụ như thế, chúng ta đã được giải thoát, được an nhiên tự tại”.

 

Chư Phật không có tâm phân biệt đây là tăng, đây là ni, đây là tướng nam, đây là tướng nữ, tướng đẹp tướng xấu, tướng giàu tướng nghèo.

Chư Phật bình đẳng tuyệt đối trong phong cách hóa độ chúng sanh. Bổn phận người tu phải nhận ra con đường chư Phật đã đi và đã đến.

 

Đức Phật đã dạy chúng ta hãy mồi ngọn đuốc chánh pháp của Ngài để tự thắp sáng trí tuệ, thấy đường mà tu, thấy đạo mà hành.

 

Các đấng Tôn sư đã tha thiết giảng dạy, khuyến tu, chớ nên đợi khi vô thường đến, không phân biệt già trẻ, sang hèn, tuổi đời càng chồng chất, đau yếu bệnh tật sanh ra, làm cho con đường đi đến giác ngộ ngày càng thêm khó khăn, trắc trở.

 

Bao nhiêu đời kiếp đã qua, con người mãi trôi lăn trong sanh tử luân hồi, không biết đến kiếp nào mới vượt thoát được.

 

Tóm lại, Ni trưởng Như Thanh như một đóa sen hồng vượt ra khỏi mặt nước với vẻ đẹp cao quí của một bậc giác ngộ. Tư tưởng nhập thế cứu khổ của người đã để lại cho đời một tấm gương sáng. Ni trưởng đã vân du khắp mọi miền đất nước, để thuyết giảng không hề mệt mỏi.

 

Cho đến ngày thanh thản ra đi, để lại cho đời và cho đạo  nhiều tác phẩm có giá trị tu học, Ni trưởng vẫn còn mong các đệ tử Phật gia phải giống như hoa sen rạng ngời ánh sáng trí tuệ, đem ngọn đuốc chánh pháp soi rọi khắp thế gian u tối, giúp mọi người thoát khỏi bùn nhơ khổ đau phiền não, vượt lên trên mặt nước như những đóa sen hồng tỏa hương thơm tinh khiết của sự giác ngộ và giải thoát.

 

Thích Nữ Chân Liễu

(Gửi về từ Montreal, Quebec, Cana

 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
05/06/2013(Xem: 14147)
Tôi vẫn thích thú và nhớ mãi cái thuở mới chân ướt chân ráo vào Chùa sinh hoạt, nhận lãnh công việc “gõ đầu trẻ” cho đám học sinh trường Việt ngữ Bồ Đề của Tu Viện Quảng Đức do Thầy Tâm Phương thành lập ...
05/06/2013(Xem: 9095)
Hàng ngàn Tăng Ni và Phật đang cung thỉnh chân dung Pháp tượng của Đức Đệ Tứ Tăng Thống Thích Huyền Quang tiến về Chánh Điện. Hàng ngàn Tăng Ni và Phật đang cung thỉnh chân dung Pháp tượng của Đức Đệ Tứ Tăng Thống Thích Huyền Quang tiến về Chánh Điện ...
01/06/2013(Xem: 6294)
Cái khó nhứt của tôi là viết về cha tôi , một người rất nổi tiếng trong giới nghiên cứu nhạc Việt Nam và Á châu . Nếu viết khen nhiều hơn chê thì thiên hạ sẽ cho là thiên vị, là người trong nhà khen lẫn nhau . Dù ai có muốn nói gì, nghĩ gì, đối với tôi không quan trọng . Tôi viết về cha tôi cũng như tôi đã viết về nhiều nhạc sĩ, ca sĩ khác . Tôi chỉ ghi những gì tôi biết về cha tôi với một cái nhìn khách quan tối đa . Nhân dịp Lễ Các Người Cha (Father's Day), tôi ghi lại một số hình ảnh của một người cha, một người thầy và một nhà nghiên cứu âm nhạc đã mang lại cho nền âm nhạc Việt Nam những hào quang rực rỡ chói sáng trên thế giới mà chưa có ai có thể làm được cho tới ngày hôm nay.
30/05/2013(Xem: 10801)
Trong suốt gần hai nghìn nămhiện diện trên quê hương, chưa bao giờ Phật giáo Việt Nam phải đối diện vớinhững đe dọa và thách thức trầm trọng như trong gần bốn mươi năm giữa thế kỷthứ 20. Đó là giai đoạn mà Phật giáo phải chịu tác động của 3 cuộc khủng hoảnglớn
25/05/2013(Xem: 14244)
Những sự kiện nổi bật nơi Thầy Minh Phát mà chư Tôn đức Tăng Ni, Phật tử quen biết xa gần đều rất khó quên : Nơi các Đại giới đàn, Thầy là vị dẫn lễ thân kính của các giới tử; nơi các đàn chẩn tế trong những ngày lễ hội lớn, Thầy là vị sám chủ uy nghiêm và gây ấn tượng mạnh trong lòng đai chúng; nơi các bịnh nhân, Thầy là vị lương y kỳ diệu, với một chai nước mát Thầy đọc vài câu Kinh ngắn chú nguyện, người bịnh mang về uống là có thể hết bịnh (đã có nhiều người hết bịnh nhờ uống những chai nước mát của Thầy cho); nơi các Tổ đình lớn, trong một số ngày lễ hội, khi cần - thầy là người “đầu bếp tài ba” v.v…
12/05/2013(Xem: 4357)
Lời Người Dịch: Hồ sơ này đã giải mật theo luật Hoa Kỳ -- tuy vẫn còn xóa trắng 2 dòng ở trang 1, và xóa trắng hai trang 3 và 4 -- sẽ cho thấy cách nhìn từ chính phủ Mỹ về tình hình Việt Nam trong thập niên 1960s. Hồ sơ này cho thấy đánh giá từ phía tình báo Hoa Kỳ về Thầy Thích Trí Quang và hoạt động của Phật Giáo VN trong năm 1966, tức là ba năm sau khi Hòa Thượng Thích Quảng Đức vị pháp thiêu thân. Một vài đánh giá trong bản văn này bây giờ đã thấy là không chính xác, khi Mỹ dựa vào suy đoán để gán ghép một mục tiêu chính trị nào đó cho một hay nhiều vị sư. Tuy nhiên, bản văn này cho thấy cái nhìn từ phía tình báo Hoa Kỳ đối với Phật Giáo trong tình hình lúc đó đang gay gắt, và sẽ chiếu rọi thêm một phần vào lịch sử phong trào Phật Giáo.
23/04/2013(Xem: 9158)
Quyển NGỮ LỤC này là tập hợp từ những lời thị chúng của Thiền Sư DUYÊN LỰC trong những kỳ thiền thất tại Việt Nam kể từ năm 1983 cho đến những năm tháng cuối đời. Cứ hằng tháng Ngài cho mở một khóa tu bảy ngày ở mỗi Thiền đường cho các hành giả tu Thiền, gọi là “đả thiền thất” để hướng dẫn đại chúng chuyên sâu trong sự nghiệp tu hành. Những lời dạy trước sau đều được đồ đệ ghi âm lại để làm tài liệu tham khảo.
23/04/2013(Xem: 5381)
Như đã kết thiện duyên từ thuở ấy, Giọt mưa trời tưới ngọt đất Hồ Nam. Tiêu phụ thân và từ mẫu họ Nhan Dòng vọng tộc, làm quan Thanh triều đại.
22/04/2013(Xem: 5965)
Kể từ khi loài người biết phát huy trí tuệ, chúng ta thấy rõ có hai khuynh hướng phát triển, khuynh hướng hướng nội và khuynh hướng hướng ngoại. Khuynh hướng hướng ngoại, gọi là ngoại quan, tức quan sát sự hiện hữu và diễn tiến của sự vật bên ngoài giúp cho con người có được nhận thức đúng đắn về sự sống của hiện tượng giới.
22/04/2013(Xem: 16271)
Ba năm về trước, khi bổn-sư (và cũng là chú ruột) của tôi là cố Hòa-Thượng Ðại-Ninh THÍCH THIỀN-TÂM viên-tịch, trong buổi lễ thọ tang ngài tôi có dâng lời nguyện trước giác-linh Hòa-Thượng cầu xin ngài chứng-minh và gia-hộ cho tôi - vừa là đệ-tử và cũng là cháu ruột của ngài - được đầy đủ đạo-lực cùng minh-tâm, kiến-tánh thêm hơn để nối-tiếp theo gót chân ngài, hoằng-dương pháp môn Tịnh-độ nơi hải-ngoại ....
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567