Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tiểu Sử Hòa Thượng Thích Nguyên Trực (1943 - 2018)

16/11/201819:47(Xem: 5363)
Tiểu Sử Hòa Thượng Thích Nguyên Trực (1943 - 2018)

HT Thich Nguyen Truc-6
TIỂU SỬ

TRƯỞNG LÃO HÒA THƯỢNG

THÍCH NGUYÊN TRỰC

(1943 - 2018)

 

- Thành viên Hội đồng Chứng minh Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam

- Chứng minh Ban Trị sự Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam tỉnh Bà Rịa -Vũng Tàu

- Nguyên Phó Trưởng ban Thường trực Ban Trị sự Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu

- Nguyên Trưởng Ban Tăng Sự Ban Trị Sự Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu

- Nguyên Phó Hiệu trưởng Trường Cao Trung Phật Học Đại Tòng Lâm

- Nguyên Phó Ban Quản trị Tổ Đình Vạn Phật Quang Đại Tòng Lâm

- Khai sơn chùa Từ Nhãn, Kp.Vạn Hạnh, P.Phú Mỹ, Tx.Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

 

        I-THÂN THẾ:

 Hòa thượng Thích Nguyên Trực, tự Trì Hạnh, hiệu Diệu Liên, thế danh Phạm Đình Khâm, sinh ngày 08 tháng 03 năm 1943 (Qúy Mùi) tại làng Hội Phú, xã An Ninh, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên, trong một gia đình thuần nông chất phác, sùng tín Tam Bảo.

Thân phụ Hòa thượng là cụ ông Phạm Thành, thân mẫu là cụ bà Mai Thị Ngõ pháp danh Đồng Chính, song thân Ngài sinh được 9 người con, 4 trai và 5 gái. Hòa thượng là con trai thứ 8 trong gia đình; hiện tại chỉ còn Hòa Thượng và em trai út là Hòa thượng Thích Nguyên Trí - trụ trì chùa Bát Nhã tại miền Nam tiểu bang California, Hoa Kỳ.

Đặc biệt, thân mẫu của Hòa thượng cùng với người em ruột là ông Mai Văn Tre (thân phụ Hòa Thượng Thích Quảng Hiển) đều hết lòng thờ kính Tam bảo, phụng sự đạo pháp, nhất là đối với chùa Thiên Hưng, từ việc lớn đến việc nhỏ hai chị em đều chăm lo coi như việc nhà. Do đó, cả hai đều được chư tôn đức thời bấy giờ thương quý, tin tưởng. Nhờ phúc báo đó, hai chị em có đến 4 người con trai xuất gia là Hòa thượng Thích Nguyên Trực, Hòa thượng Thích Nguyên Trí, Hòa thượng Thích Quảng Hiển và Hòa thượng Thích Nhuận Hải. Sau này có thêm một người cháu cũng xuất gia là Sư cô Thích nữ Huệ Chiếu.

 

II. XUẤT GIA - HỌC ĐẠO:

Từ thuở thiếu thời, Hòa thượng đã đầy đủ thiện duyên với Phật pháp. Lúc 7 tuổi, Hòa thượng bệnh liên miên, không phương cứu chữa. Suốt ngày, Hòa thượng nhìn xung quanh, thấy toàn là Phật, nên đảnh lễ ngày đêm không ăn uống. Thấy vậy, cha mẹ bèn đem Hòa thượng ra chùa Thiên Hưng trong làng xin được cầu nguyện. Đến chùa, Hòa thượng tự dưng khỏe hẳn, không muốn về nhà nữa; Hòa thượng xin được ở lại chùa. Sau đó, Hòa thượng được sự chấp thuận của cha mẹ, đảnh lễ Ngài Thiên Hưng, húy Thị Nhật, hiệu Ngộ Tánh, đời thứ 42 dòng Lâm Tế Chúc Thánh làm Thầy thế độ xuất gia vào ngày Rằm tháng 7 năm 1950.

- Năm 1952, Hòa thượng Bổn sư thế độ viên tịch. Giáo hội Tăng già tỉnh Phú Yên cử Hòa thượng Thích Tâm Dung, tự Truyền Diệu, hiệu Liên Phương về trú trì chùa Thiên Hưng. Lúc bấy giờ, Hòa thượng đảnh lễ thọ pháp xin được làm đệ tử của Ngài Tâm Dung và được ban pháp danh là Nguyên Trực, thuộc đời 44 dòng Lâm Tế, môn phái Tổ sư Liễu Quán.

- Năm 1954, em trai của Hòa thượng là Ông Phạm Đình Quế cũng xin cha mẹ xuất gia học đạo với Ngài Tâm Dung và được ban cho pháp danh là Nguyên Trí. (nay là Hòa thượng Thích Nguyên Trí-trụ trì chùa Bát Nhã tại miền Nam tiểu bang California, Hoa Kỳ)

- Năm 1959, Ngài Bổn sư cho Hòa thượng ra tòng học tại Tu Viện Nguyên Thiều - Bình Định dưới sự hướng dẫn của cố Đại lão Hòa thượng Thích Huyền Quang. Cũng tại đây, Hòa thượng được Bổn sư cho thọ giới Sa Di.

 

III.  HÀNH ĐẠO:

- Năm 1963, Sau khi tốt nghiệp tại Phật Học Viện Nguyên Thiều, Hòa thượng về lại chùa Bảo Tịnh-văn phòng Tỉnh Hội tỉnh Phú Yên để phụ công tác của Giáo hội. Sau đó, Ngài được công cử vào trường Bồ Đề tại thành phố Tuy Hòa-tỉnh Phú Yên (do Đại lão Hòa thượng Trí Nghiêm xây dựng năm 1956) để điều hành và giảng dạy.

- Năm 1966, Hòa thượng được Ngài Bổn sư cho phép thọ Cụ túc giới tại Đại giới đàn“Phước Huệ”, tổ chức tại Phật Học viện Trung phần Hải Đức Nha Trang, do Đại lão Hòa thượng Thích Tịnh Khiết - Đệ nhất Tăng Thống làm Đường đầu Hòa thượng.

- Năm 1967, Hòa thượng vào Sài Gòn theo học tại Viện Cao Đẳng Phật Học Huệ Nghiêm. Cũng trong thời gian này, Hòa thượng cùng với Hòa thượng Thích Quảng Hiển thành lập chùa Từ Nhãn, gần khu vực Bà Quẹo, quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh.

- Năm 1971, Hòa thượng muốn tìm nơi thanh vắng tu tập và tiếp Tăng độ chúng, nên Hòa thượng cùng với pháp đệ là Hòa thượng Thích Nguyên Trí ra khu vực núi Thị Vải, xã Phú Mỹ, huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Nai, (nay là Khu phố Vạn Hạnh, phường Phú Mỹ, thị xã Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu) khai sơn chùa Từ Nhãn.

Trong thời gian này, Hòa thượng cùng với Hòa thượng Thích Đồng Huy, Hòa thượng Thích Quảng Hiển, Hòa thượng Thích Nguyên Trí thành lập các làng Phật giáo: Vạn Hạnh, Hộ Pháp, Tịnh Độ, Quảng Phú…

 - Năm 1988, Hòa thượng cùng với Hòa thượng Thích Thiện Phụng, Hòa thượng Thích Minh Hiển, Hòa thượng Thích Nhuận Hải mở Lớp Bổ Túc Giáo Lý cho Tăng Ni khu vực Làng Phật Giáo Vạn Hạnh và Đại Tòng Lâm.

  - Năm 1990, Hòa thượng cùng với Hòa Thượng Thích Đồng Huy, Hòa thượng Thích Quảng Hiển, Hòa thượng Thích Minh Đạt, Hòa thượng Thích Giác Hạnh thành lập Trường Cơ Bản Phật Học Đại Tòng Lâm, (nay là Trường Cao Trung Cấp Phật Học Đại Tòng Lâm) để tiếp tục sự nghiệp đào đạo tăng tài cho Giáo hội.

- Năm 1991, sau khi một phần địa giới của tỉnh Đồng Nai tách ra sát nhập với đặc khu Vũng Tàu - Côn Đảo để hình thành tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, Hòa thượng đảm nhiệm chức vụ Phó hiệu trưởng Trường CTPH Đại Tòng Lâm, cộng tác cùng HT. Thích Quảng Hiển trong công tác giáo dục, đào tạo Tăng tài.

- Năm 1992, Hòa thượng cùng với Hòa thượng Thích Đồng Huy, Hòa thượng Thích Quảng Hiển, Hòa thượng Thích Giác Hạnh,… thành lập GHPGVN tỉnh BR-VT.

- Nhiệm kỳ I (1992-1997), Hòa thượng được Đại Hội Phật giáo tỉnh BRVT suy cử chức vụ Phó Thư ký BTS PG tỉnh BRVT.

- Nhiệm kỳ II (1997 - 2002), Hòa thượng được Đại Hội Phật giáo tỉnh BRVT suy cử chức vụ Trưởng ban Tăng sự tỉnh kiêm Chánh Đại diện Phật giáo huyện Tân Thành.

- Từ năm 1999 - 2001, Hòa thượng mở lớp Sơ cấp Phật học cho Tăng Ni huyện Tân Thành và đảm nhận vai trò Chủ nhiệm.

- Nhiệm kỳ III (2002 – 2007), Hòa thượng được Đại Hội Phật giáo tỉnh BRVT suy cử chức vụ Trưởng ban Tăng sự Phật giáo tỉnh BRVT.

- Nhiệm kỳ IV (2007-2012), Hòa thượng được Đại Hội Phật giáo tỉnh BRVT suy cử giữ chức vụ Phó Trưởng Ban Trị sự kiêm Trưởng ban Tăng sự GHPGVN tỉnh.

- Nhiệm kỳ V (2012-2017), Hòa thượng được Đại Hội Phật giáo tỉnh BRVT suy cử giữ chức vụ Phó Trưởng ban Thường trực Ban Trị sự GHPGVN tỉnh BRVT.

- Nhiệm kỳ VI (2017-2022), Hòa thượng được Đại Hội Phật giáo tỉnh BRVT suy tôn vào Ban Chứng minh - Ban Trị Sự Giáo Hội Phật giáo tỉnh.

- Đại Hội Phật Giáo Toàn Quốc lần thứ VIII (2017-2022)  được tổ chức tại thủ đô Hà Nội, Ngài được Đại Hội suy tôn vào vị trí Thành viên Ban Chứng Minh - Hội Đồng Chứng minh GHPGVN.

- Ngoài ra; Hòa thượng còn làm Tôn chứng cho các Giới đàn Thiện Hòa tổ chức tại Đại Tòng Lâm vào các năm 2000, 2003, 2006, 2009, 2013, 2016. Vào năm 2012 Ban Kiến Đàn Giáo Hội tỉnh Hậu Giang, cung  thỉnh Ngài làm Giáo thọ A Xà Lê tại Giới Đàn Nhật Tiên 3.

- Năm 2016, nhận thấy sự nghiệp hoằng hóa độ sanh của mình sắp mãn, thân tứ đại già yếu không thể duy trì lâu dài, cần phải thực hiện sứ mệnh “Truyền đăng tục diệm”, Ngài đã bàn giao lại mọi công tác của Giáo hội và tìm người kế thừa để tiếp tục duy trì mạng mạch Tông môn và phát huy sự nghiệp hoằng pháp. Điều đó được Ngài gửi gắm trong diễn văn khai mạc lễ bổ nhiệm trụ trì chùa Từ Nhãn ngày 03/03/2017 như sau: Chư Phật, Chư Tổ thường dạy: “Tổ tổ tương truyền, sư sư tương kế, đạo đời một thể viên dung, tùy duyên bất biến, bất biến tùy duyên, truyền trì mạng mạch với trọng trách một sứ giả Như Lai. Thật vậy, đời người không quá 70 hay 100 năm hy hữu bởi định luật vô thường của sinh - lão - bệnh - tử không hẹn cùng người... Hiện tại, tuổi cao sức yếu cần sắp xếp người thay thế kế vị về mặt pháp lý - pháp nhân để an lòng những tháng năm còn lại thực hiện việc “nội cần khắc niệm chi công - ngoại hoằng bất tranh chi đức”.

Cuộc đời Hòa Thượng thật xứng đáng với cái tên mà Ngài Bổn sư đã ban cho, Hòa thượng luôn cương trực, thẳng thắn trong công tác điều hành hành chánh Giáo hội qua các nhiệm kỳ mà hòa thượng đã đảm nhận. Với tâm nguyện hoằng dương Phật pháp, cả cuộc đời Hòa thượng phụng hiến cho Đạo pháp - dân tộc, hết lòng với lý tưởng giáo dục, đào tạo các thế hệ Tăng Ni tài cho Giáo hội Phật giáo Việt Nam; với sứ mệnh “tiếp dẫn hậu lai, báo Phật ân đức”, Hòa thượng đã tiếp nhận và giáo dưỡng hơn 100 đệ tử xuất gia hiện đang trú trì và hoằng dương chánh pháp ở các tỉnh thành trong nước và nước ngoài.

IV . NHỮNG NĂM THÁNG CUỐI CÙNG:

Mặc dù niên cao lạp trưởng, thân mang trọng bệnh, nhưng Hòa thượng vẫn không quên ân giáo dưỡng, nghĩa pháp lữ, tình cốt nhục:

Năm 2013, Hòa thượng đã qua Pháp để tiễn biệt HT. Thích Minh Tâm, viện chủ chùa Khánh Anh, Pháp Quốc.

Năm 2016, Hòa thượng cũng đã phát tâm trùng tu lại tổ đình Thiên Hưng ở Phú Yên; kiến thiết lại bảo tháp hàng trăm năm tuổi đã bị hư hoại của các vị tổ sư, nhất là Bảo tháp của Tổ Thiệt Lãm, Khai sơn Tổ đình Thiên Hưng; di dời tháp Hòa thượng Bổn sư từ Tuy Hòa về lại chùa Tổ.

Năm 2017, Hòa thượng sang Hoa Kỳ thăm pháp đệ lần cuối cùng, là Hòa thượng Thích Nguyên Trí, trụ trì chùa Bát Nhã.

Khi về Việt Nam, dường như dự biết được mình sắp mãn duyên trần, nên Hòa thượng dành thời gian đi thăm các huynh đệ Pháp lữ đồng tu, đồng học, đồng hoạt động Phật sự trong mấy mươi năm qua và đặc biệt Hòa thượng đã không quản ngại đường xá xa xôi, thân lâm đến trú xứ của các đệ tử, từ miền Tây đến Cao nguyên, từ Duyên Hải miền Trung đến tận phương Bắc xa xôi, nhằm động viên sách tấn, căn dặn các môn đệ phải luôn chung sống trong tinh thần lục hòa cộng trụ, trao dồi đạo tâm xây dựng một đời sống an lạc giải thoát và Hòa thượng còn chia sẻ kinh nghiệm tu tập, nghiệp vụ hành chánh Giáo hội cũng như sứ mệnh hoằng pháp lợi sanh. 

 

V. VIÊN TỊCH:

Tịch lặng sơn cao

Đường trần rũ bỏ

Mênh mang trời rộng tiêu dao

Khứ lai vận hành đã tỏ.

Hòa thượng lâm trọng bệnh trong những năm tháng gần đây nhưng vẫn luôn tinh tấn với kệ kinh, khi thì đối trước án Phật trì tụng - lúc  thì mặc niệm trong tâm, miệng không ngưng câu Phật hiệu, tâm chẳng rời tánh chơn như.

Những việc cần làm Hòa thượng đã làm xong, không còn vướng bận các pháp thường tình, duyên trần đã mãn, Hòa thượng an nhiên xả báo thân, viên tịch vào lúc 10 giờ 40 phút, ngày 10 tháng 11 năm 2018 (nhằm ngày mùng 04 tháng 10 năm Mậu Tuất), Phật lịch 2562, tại chùa Từ Nhãn, nơi ghi dấu bước chân hành đạo của Ngài, trong đạo tình và sự hộ niệm của các pháp lữ, tứ chúng đệ tử. Trụ thế 76 năm, 54 Hạ lạp.

Than ôi!

Một bước theo duyên tụ tán

Qua cửa vô môn, kính tiễn biệt Người.

Hòa thượng mỉm cười

Tăng Ni xót dạ

Tấm lòng nhân hậu

Rạng mãi hóa thành.

Từ nay, hoa trắng tung bay khắp trời Vạn Hạnh,

Từ Nhãn lặng thinh, khóc Người vào cõi thiên thu.

Hòa thượng đã thể nhập vào Niết-bàn Tịnh lạc, nhưng đạo phong của Ngài vẫn tồn tại với Tăng Ni Phật Giáo tỉnh BR-VT và trong lòng đệ tử Phật khắp muôn nơi.

Tuy ngôn ngữ trầm phù của thế gian không chuyển tải hết được công hạnh của Hòa thượng, nhưng chúng con cung kính ghi lại vài dòng lược sử của Ngài như một nén tâm hương, đảnh lễ thâm ân của một bậc thạch trụ tòng lâm trong ngôi nhà Phật pháp. Ngưỡng nguyện giác linh Hòa thượng cao đăng thượng phẩm và hồi nhập Ta bà, tiếp tục sứ mệnh cao cả thiêng liêng: Hóa độ chúng sanh đồng về bến giác.

 

Nam Mô Tân viên tịch, Từ Lâm Tế Chánh Tông Tứ Thập Tứ Thế, Việt Nam Phật Giáo Thành Viên Hội Đồng Chứng Minh, Khai Kiến Từ Nhãn Tự, Húy Thượng Nguyên Hạ Trực, Tự Trì Hạnh, Hiệu Diệu Liên, Phạm Công Trưởng lão Hòa Thượng Giác Linh, Thùy Từ Chứng Giám.

 

                                                      Môn Đồ Pháp Quyến

                                                     Đồng phụng soạn                                    

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
18/07/2010(Xem: 6432)
Kính bạch Sư Tổ! Chúng con đang tập tiếp xúc với Người qua hình ảnh một bậc thầy già chốn núi rừng Dương Xuân. Một túp liều tranh, một bà mẹ già và với ba người đệ tử. Đó là khoảng thời gian hạnh phúc nhất của Sư Tổ. Người có thời gian chăm sóc mẹ già và trao truyền những hoa trái tu học cho những người học trò yêu quý. Xuất thân từ làng Trung Kiên – một vùng đất Phật giáo ở Quảng Trị, Sư Tổ đã đến chùa Thiên Thọ (Báo Quốc) núi Hàm Long – Huế, để xuất gia học đạo với Thiền sư Phổ Tịnh, lúc đó Người chỉ mới lên bảy tuổi. Đến năm 30 tuổi, nhận thấy nơi Sư Tổ có chí khí của một bậc Xuất trần nên Sư Tổ được Bổn sư phú pháp truyền đăng với bài kệ: Nhất Định chiếu quang minh Hư không nguyệt mãn viên Tổ tổ truyền phú chúc Đạo Minh kế Tánh Thiên.
04/07/2010(Xem: 9512)
-Người đi tiên phong và nỗ lực không mệt mỏi cho sự nghiệp phát triển trí tuệ, từ bi và hòa bình- -Nhà lãnh đạo toàn cầu trong phong trào vì hòa bình, nhân quyền và sức khỏe cộng đồng-
14/06/2010(Xem: 4489)
Hòa Thượng Thích Bích Nguyên là một trong những bậc cao Tăng thạc đức của Phật giáo Lâm Đồng. Ngài họ Nguyễn, húy là Tùng, sinh năm 1898 tại làng Duy Hòa, xã Triệu Hòa, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Thuở nhỏ, bẩm chất thông minh, đĩnh ngộ. Thời tráng niên, lập nghiệp ở Lào, Hòa Thượng nhân đọc báo Từ Bi Âm mà ngộ đạo, thấy rõ cuộc đời vô thường, nuôi chí xuất gia. Đến năm 29 tuổi (1927), Hòa Thượng mới có đủ nhân duyên đầu sư thọ giáo với Hòa Thượng PHƯỚC HUỆ, Trú trì chùa Hải Đức, Huế và đắc giới Sa di năm 1934. Năm 1936, ngài thọ Cụ túc giới với pháp hiệu BÍCH NGUYÊN, rồi theo học ở các lớp Phật học tại các Phật học viện Hải Đức, Bảo Quốc và Ấn Quang.
15/05/2010(Xem: 4335)
Thiền sư Khánh Hòa sinh năm 1877 tại làng Phú Lễ tỉnh bến Tre, xuất gia năm 19 tuổi tại chùa Khải Tường. Chí nguyện chấn hưng Phật giáo của ông phát sinh vào khoảng năm ông được bốn mươi tuổi. Ông du hành khắp các tổ đình và Nam Kỳ để gây ý thức chấn hưng và kêu gọi sự hợp tác của các bậc tôn túc.
19/03/2010(Xem: 6356)
Một cặp kính trắng với sợi dây vòng ra sau cổ, năm ba con khỉ nhảy tung tăng trên vai, trên đầu, tóc tai rối rắm, áo quần cái dài, cái ngắn, kiểu đàn ông, đàn bà, đầy màu sắc sặc sỡ …đây là dáng người anh Bùi Giáng chúng ta thường gặp trên những nẽo đường Sài Gòn năm 1975 … Sau năm 1975 , anh Bùi Giáng về ở chung với chúng tôi trong nội xá viện Đại học Vạn Hạnh cũ (222 Trương Minh Giảng, nay là Lê Văn Sĩ). Vào thời điểm này, Đại học Vạn Hạnh không còn hoạt động, nên nội xá chỉ còn một số ít người ở lại với Hòa thượng Viện trưởng Thích Minh Châu. Chúng tôi quản lý chung, chú Chơn Thuần đi chợ và thị giả cho Hòa thượng Viện trưởng, anh Trần Châu phụ trách an ninh, anh Bùi Giáng thì nhận nhiệm vụ đi mua lương thực.
10/03/2010(Xem: 5168)
Bản thân tôi (Tín Nghĩa), rất ít có dịp thân cận với Ôn Già Lam. Điều dễ hiểu, vì tôi không xuất thân từ Phật Học Viện. Vả lại, mỗi lần Ôn về Huế (Bảo Quốc), thường vào dịp đầu xuân, thì đa phần Ôn hay đàm luận Phật sự với quý Ôn lớn như Ôn Linh Mụ, Ôn Trúc Lâm, Ôn Linh Quang, Ôn Từ Đàm và Ôn Bảo Quốc, . . . Đầu năm, Ôn thường hay nghe Đại luật (tức là dạy luật Tứ phần) cho hai chúng Tỳ kheo và Tỳ kheo ni, thì tôi đạp xe ra học rồi về lại chùa. Vả lại, bổn phận của tôi ở chúng Trúc Lâm cũng tương đối bề bộn. Tuy thế, chính tôi lại có với Ôn ba kỷ niệm khó quên.
10/03/2010(Xem: 7656)
Bây giờ là những ngày cuối năm âm lịch. Thiên hạ cùng viết về Xuân, Tết. Tôi muốn viết về Ôn Già Lam và Tu viện Quảng Hương Già Lam. Ôn Già Lam là cách gọi tôn kính của những môn đệ và phật-tử hướng về Đại lão Hòa thượng Thích Trí Thủ, vị viện chủ sáng lập tu viện. Trong tu viện, tăng chúng khi nói về ngài thì chỉ dùng chữ “Ôn” một cách gần gũi. Còn tu viện Quảng Hương Già Lam thì vẫn thường được gọi với cái tên thật ngắn: chùa Già Lam.
10/03/2010(Xem: 6057)
Ôn Già Lam, chỉ ba tiếng ấy thôi cũng đủ làm ấm lòng bao lớp Tăng sinh của các Phật Học Viện: Báo Quốc - Huế, Phổ Đà - Đà Nẵng, Hải Đức - Nha Trang, Già Lam - Sài Gòn. Ba tiếng nói ấy như trái tim của Mẹ ấp ủ đàn con qua suốt quãng đời dãi dầu mưa nắng. Ôn Già Lam, người đã hy sinh suốt đời mình để phụng sự cho Phật pháp, đào tạo Tăng tài qua nhiều thế hệ. Ôn đã khai phóng tinh thần thế học cho Tăng sinh các Phật Học Viện.
10/03/2010(Xem: 12779)
Sau năm 75 các Phật Học Viện đều đóng cửa. Các tăng sinh tại các Phật Học Viện đều trở về chùa cũ của Thầy Tổ để sinh sống và tu học. Thật tế, tu thì có mà học thì hầu như không. Có chăng là Thầy dạy đệ tử trong chùa. Những chùa có ruộng đất thì thầy trò tự túc canh tác để sinh sống. Sinh hoạt giáo dục và đào tạo tăng ni trẻ đã không còn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567