Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tiểu Sử Hòa Thượng Thích Nguyên Trực (1943 - 2018)

16/11/201819:47(Xem: 5388)
Tiểu Sử Hòa Thượng Thích Nguyên Trực (1943 - 2018)

HT Thich Nguyen Truc-6
TIỂU SỬ

TRƯỞNG LÃO HÒA THƯỢNG

THÍCH NGUYÊN TRỰC

(1943 - 2018)

 

- Thành viên Hội đồng Chứng minh Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam

- Chứng minh Ban Trị sự Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam tỉnh Bà Rịa -Vũng Tàu

- Nguyên Phó Trưởng ban Thường trực Ban Trị sự Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu

- Nguyên Trưởng Ban Tăng Sự Ban Trị Sự Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu

- Nguyên Phó Hiệu trưởng Trường Cao Trung Phật Học Đại Tòng Lâm

- Nguyên Phó Ban Quản trị Tổ Đình Vạn Phật Quang Đại Tòng Lâm

- Khai sơn chùa Từ Nhãn, Kp.Vạn Hạnh, P.Phú Mỹ, Tx.Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

 

        I-THÂN THẾ:

 Hòa thượng Thích Nguyên Trực, tự Trì Hạnh, hiệu Diệu Liên, thế danh Phạm Đình Khâm, sinh ngày 08 tháng 03 năm 1943 (Qúy Mùi) tại làng Hội Phú, xã An Ninh, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên, trong một gia đình thuần nông chất phác, sùng tín Tam Bảo.

Thân phụ Hòa thượng là cụ ông Phạm Thành, thân mẫu là cụ bà Mai Thị Ngõ pháp danh Đồng Chính, song thân Ngài sinh được 9 người con, 4 trai và 5 gái. Hòa thượng là con trai thứ 8 trong gia đình; hiện tại chỉ còn Hòa Thượng và em trai út là Hòa thượng Thích Nguyên Trí - trụ trì chùa Bát Nhã tại miền Nam tiểu bang California, Hoa Kỳ.

Đặc biệt, thân mẫu của Hòa thượng cùng với người em ruột là ông Mai Văn Tre (thân phụ Hòa Thượng Thích Quảng Hiển) đều hết lòng thờ kính Tam bảo, phụng sự đạo pháp, nhất là đối với chùa Thiên Hưng, từ việc lớn đến việc nhỏ hai chị em đều chăm lo coi như việc nhà. Do đó, cả hai đều được chư tôn đức thời bấy giờ thương quý, tin tưởng. Nhờ phúc báo đó, hai chị em có đến 4 người con trai xuất gia là Hòa thượng Thích Nguyên Trực, Hòa thượng Thích Nguyên Trí, Hòa thượng Thích Quảng Hiển và Hòa thượng Thích Nhuận Hải. Sau này có thêm một người cháu cũng xuất gia là Sư cô Thích nữ Huệ Chiếu.

 

II. XUẤT GIA - HỌC ĐẠO:

Từ thuở thiếu thời, Hòa thượng đã đầy đủ thiện duyên với Phật pháp. Lúc 7 tuổi, Hòa thượng bệnh liên miên, không phương cứu chữa. Suốt ngày, Hòa thượng nhìn xung quanh, thấy toàn là Phật, nên đảnh lễ ngày đêm không ăn uống. Thấy vậy, cha mẹ bèn đem Hòa thượng ra chùa Thiên Hưng trong làng xin được cầu nguyện. Đến chùa, Hòa thượng tự dưng khỏe hẳn, không muốn về nhà nữa; Hòa thượng xin được ở lại chùa. Sau đó, Hòa thượng được sự chấp thuận của cha mẹ, đảnh lễ Ngài Thiên Hưng, húy Thị Nhật, hiệu Ngộ Tánh, đời thứ 42 dòng Lâm Tế Chúc Thánh làm Thầy thế độ xuất gia vào ngày Rằm tháng 7 năm 1950.

- Năm 1952, Hòa thượng Bổn sư thế độ viên tịch. Giáo hội Tăng già tỉnh Phú Yên cử Hòa thượng Thích Tâm Dung, tự Truyền Diệu, hiệu Liên Phương về trú trì chùa Thiên Hưng. Lúc bấy giờ, Hòa thượng đảnh lễ thọ pháp xin được làm đệ tử của Ngài Tâm Dung và được ban pháp danh là Nguyên Trực, thuộc đời 44 dòng Lâm Tế, môn phái Tổ sư Liễu Quán.

- Năm 1954, em trai của Hòa thượng là Ông Phạm Đình Quế cũng xin cha mẹ xuất gia học đạo với Ngài Tâm Dung và được ban cho pháp danh là Nguyên Trí. (nay là Hòa thượng Thích Nguyên Trí-trụ trì chùa Bát Nhã tại miền Nam tiểu bang California, Hoa Kỳ)

- Năm 1959, Ngài Bổn sư cho Hòa thượng ra tòng học tại Tu Viện Nguyên Thiều - Bình Định dưới sự hướng dẫn của cố Đại lão Hòa thượng Thích Huyền Quang. Cũng tại đây, Hòa thượng được Bổn sư cho thọ giới Sa Di.

 

III.  HÀNH ĐẠO:

- Năm 1963, Sau khi tốt nghiệp tại Phật Học Viện Nguyên Thiều, Hòa thượng về lại chùa Bảo Tịnh-văn phòng Tỉnh Hội tỉnh Phú Yên để phụ công tác của Giáo hội. Sau đó, Ngài được công cử vào trường Bồ Đề tại thành phố Tuy Hòa-tỉnh Phú Yên (do Đại lão Hòa thượng Trí Nghiêm xây dựng năm 1956) để điều hành và giảng dạy.

- Năm 1966, Hòa thượng được Ngài Bổn sư cho phép thọ Cụ túc giới tại Đại giới đàn“Phước Huệ”, tổ chức tại Phật Học viện Trung phần Hải Đức Nha Trang, do Đại lão Hòa thượng Thích Tịnh Khiết - Đệ nhất Tăng Thống làm Đường đầu Hòa thượng.

- Năm 1967, Hòa thượng vào Sài Gòn theo học tại Viện Cao Đẳng Phật Học Huệ Nghiêm. Cũng trong thời gian này, Hòa thượng cùng với Hòa thượng Thích Quảng Hiển thành lập chùa Từ Nhãn, gần khu vực Bà Quẹo, quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh.

- Năm 1971, Hòa thượng muốn tìm nơi thanh vắng tu tập và tiếp Tăng độ chúng, nên Hòa thượng cùng với pháp đệ là Hòa thượng Thích Nguyên Trí ra khu vực núi Thị Vải, xã Phú Mỹ, huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Nai, (nay là Khu phố Vạn Hạnh, phường Phú Mỹ, thị xã Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu) khai sơn chùa Từ Nhãn.

Trong thời gian này, Hòa thượng cùng với Hòa thượng Thích Đồng Huy, Hòa thượng Thích Quảng Hiển, Hòa thượng Thích Nguyên Trí thành lập các làng Phật giáo: Vạn Hạnh, Hộ Pháp, Tịnh Độ, Quảng Phú…

 - Năm 1988, Hòa thượng cùng với Hòa thượng Thích Thiện Phụng, Hòa thượng Thích Minh Hiển, Hòa thượng Thích Nhuận Hải mở Lớp Bổ Túc Giáo Lý cho Tăng Ni khu vực Làng Phật Giáo Vạn Hạnh và Đại Tòng Lâm.

  - Năm 1990, Hòa thượng cùng với Hòa Thượng Thích Đồng Huy, Hòa thượng Thích Quảng Hiển, Hòa thượng Thích Minh Đạt, Hòa thượng Thích Giác Hạnh thành lập Trường Cơ Bản Phật Học Đại Tòng Lâm, (nay là Trường Cao Trung Cấp Phật Học Đại Tòng Lâm) để tiếp tục sự nghiệp đào đạo tăng tài cho Giáo hội.

- Năm 1991, sau khi một phần địa giới của tỉnh Đồng Nai tách ra sát nhập với đặc khu Vũng Tàu - Côn Đảo để hình thành tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, Hòa thượng đảm nhiệm chức vụ Phó hiệu trưởng Trường CTPH Đại Tòng Lâm, cộng tác cùng HT. Thích Quảng Hiển trong công tác giáo dục, đào tạo Tăng tài.

- Năm 1992, Hòa thượng cùng với Hòa thượng Thích Đồng Huy, Hòa thượng Thích Quảng Hiển, Hòa thượng Thích Giác Hạnh,… thành lập GHPGVN tỉnh BR-VT.

- Nhiệm kỳ I (1992-1997), Hòa thượng được Đại Hội Phật giáo tỉnh BRVT suy cử chức vụ Phó Thư ký BTS PG tỉnh BRVT.

- Nhiệm kỳ II (1997 - 2002), Hòa thượng được Đại Hội Phật giáo tỉnh BRVT suy cử chức vụ Trưởng ban Tăng sự tỉnh kiêm Chánh Đại diện Phật giáo huyện Tân Thành.

- Từ năm 1999 - 2001, Hòa thượng mở lớp Sơ cấp Phật học cho Tăng Ni huyện Tân Thành và đảm nhận vai trò Chủ nhiệm.

- Nhiệm kỳ III (2002 – 2007), Hòa thượng được Đại Hội Phật giáo tỉnh BRVT suy cử chức vụ Trưởng ban Tăng sự Phật giáo tỉnh BRVT.

- Nhiệm kỳ IV (2007-2012), Hòa thượng được Đại Hội Phật giáo tỉnh BRVT suy cử giữ chức vụ Phó Trưởng Ban Trị sự kiêm Trưởng ban Tăng sự GHPGVN tỉnh.

- Nhiệm kỳ V (2012-2017), Hòa thượng được Đại Hội Phật giáo tỉnh BRVT suy cử giữ chức vụ Phó Trưởng ban Thường trực Ban Trị sự GHPGVN tỉnh BRVT.

- Nhiệm kỳ VI (2017-2022), Hòa thượng được Đại Hội Phật giáo tỉnh BRVT suy tôn vào Ban Chứng minh - Ban Trị Sự Giáo Hội Phật giáo tỉnh.

- Đại Hội Phật Giáo Toàn Quốc lần thứ VIII (2017-2022)  được tổ chức tại thủ đô Hà Nội, Ngài được Đại Hội suy tôn vào vị trí Thành viên Ban Chứng Minh - Hội Đồng Chứng minh GHPGVN.

- Ngoài ra; Hòa thượng còn làm Tôn chứng cho các Giới đàn Thiện Hòa tổ chức tại Đại Tòng Lâm vào các năm 2000, 2003, 2006, 2009, 2013, 2016. Vào năm 2012 Ban Kiến Đàn Giáo Hội tỉnh Hậu Giang, cung  thỉnh Ngài làm Giáo thọ A Xà Lê tại Giới Đàn Nhật Tiên 3.

- Năm 2016, nhận thấy sự nghiệp hoằng hóa độ sanh của mình sắp mãn, thân tứ đại già yếu không thể duy trì lâu dài, cần phải thực hiện sứ mệnh “Truyền đăng tục diệm”, Ngài đã bàn giao lại mọi công tác của Giáo hội và tìm người kế thừa để tiếp tục duy trì mạng mạch Tông môn và phát huy sự nghiệp hoằng pháp. Điều đó được Ngài gửi gắm trong diễn văn khai mạc lễ bổ nhiệm trụ trì chùa Từ Nhãn ngày 03/03/2017 như sau: Chư Phật, Chư Tổ thường dạy: “Tổ tổ tương truyền, sư sư tương kế, đạo đời một thể viên dung, tùy duyên bất biến, bất biến tùy duyên, truyền trì mạng mạch với trọng trách một sứ giả Như Lai. Thật vậy, đời người không quá 70 hay 100 năm hy hữu bởi định luật vô thường của sinh - lão - bệnh - tử không hẹn cùng người... Hiện tại, tuổi cao sức yếu cần sắp xếp người thay thế kế vị về mặt pháp lý - pháp nhân để an lòng những tháng năm còn lại thực hiện việc “nội cần khắc niệm chi công - ngoại hoằng bất tranh chi đức”.

Cuộc đời Hòa Thượng thật xứng đáng với cái tên mà Ngài Bổn sư đã ban cho, Hòa thượng luôn cương trực, thẳng thắn trong công tác điều hành hành chánh Giáo hội qua các nhiệm kỳ mà hòa thượng đã đảm nhận. Với tâm nguyện hoằng dương Phật pháp, cả cuộc đời Hòa thượng phụng hiến cho Đạo pháp - dân tộc, hết lòng với lý tưởng giáo dục, đào tạo các thế hệ Tăng Ni tài cho Giáo hội Phật giáo Việt Nam; với sứ mệnh “tiếp dẫn hậu lai, báo Phật ân đức”, Hòa thượng đã tiếp nhận và giáo dưỡng hơn 100 đệ tử xuất gia hiện đang trú trì và hoằng dương chánh pháp ở các tỉnh thành trong nước và nước ngoài.

IV . NHỮNG NĂM THÁNG CUỐI CÙNG:

Mặc dù niên cao lạp trưởng, thân mang trọng bệnh, nhưng Hòa thượng vẫn không quên ân giáo dưỡng, nghĩa pháp lữ, tình cốt nhục:

Năm 2013, Hòa thượng đã qua Pháp để tiễn biệt HT. Thích Minh Tâm, viện chủ chùa Khánh Anh, Pháp Quốc.

Năm 2016, Hòa thượng cũng đã phát tâm trùng tu lại tổ đình Thiên Hưng ở Phú Yên; kiến thiết lại bảo tháp hàng trăm năm tuổi đã bị hư hoại của các vị tổ sư, nhất là Bảo tháp của Tổ Thiệt Lãm, Khai sơn Tổ đình Thiên Hưng; di dời tháp Hòa thượng Bổn sư từ Tuy Hòa về lại chùa Tổ.

Năm 2017, Hòa thượng sang Hoa Kỳ thăm pháp đệ lần cuối cùng, là Hòa thượng Thích Nguyên Trí, trụ trì chùa Bát Nhã.

Khi về Việt Nam, dường như dự biết được mình sắp mãn duyên trần, nên Hòa thượng dành thời gian đi thăm các huynh đệ Pháp lữ đồng tu, đồng học, đồng hoạt động Phật sự trong mấy mươi năm qua và đặc biệt Hòa thượng đã không quản ngại đường xá xa xôi, thân lâm đến trú xứ của các đệ tử, từ miền Tây đến Cao nguyên, từ Duyên Hải miền Trung đến tận phương Bắc xa xôi, nhằm động viên sách tấn, căn dặn các môn đệ phải luôn chung sống trong tinh thần lục hòa cộng trụ, trao dồi đạo tâm xây dựng một đời sống an lạc giải thoát và Hòa thượng còn chia sẻ kinh nghiệm tu tập, nghiệp vụ hành chánh Giáo hội cũng như sứ mệnh hoằng pháp lợi sanh. 

 

V. VIÊN TỊCH:

Tịch lặng sơn cao

Đường trần rũ bỏ

Mênh mang trời rộng tiêu dao

Khứ lai vận hành đã tỏ.

Hòa thượng lâm trọng bệnh trong những năm tháng gần đây nhưng vẫn luôn tinh tấn với kệ kinh, khi thì đối trước án Phật trì tụng - lúc  thì mặc niệm trong tâm, miệng không ngưng câu Phật hiệu, tâm chẳng rời tánh chơn như.

Những việc cần làm Hòa thượng đã làm xong, không còn vướng bận các pháp thường tình, duyên trần đã mãn, Hòa thượng an nhiên xả báo thân, viên tịch vào lúc 10 giờ 40 phút, ngày 10 tháng 11 năm 2018 (nhằm ngày mùng 04 tháng 10 năm Mậu Tuất), Phật lịch 2562, tại chùa Từ Nhãn, nơi ghi dấu bước chân hành đạo của Ngài, trong đạo tình và sự hộ niệm của các pháp lữ, tứ chúng đệ tử. Trụ thế 76 năm, 54 Hạ lạp.

Than ôi!

Một bước theo duyên tụ tán

Qua cửa vô môn, kính tiễn biệt Người.

Hòa thượng mỉm cười

Tăng Ni xót dạ

Tấm lòng nhân hậu

Rạng mãi hóa thành.

Từ nay, hoa trắng tung bay khắp trời Vạn Hạnh,

Từ Nhãn lặng thinh, khóc Người vào cõi thiên thu.

Hòa thượng đã thể nhập vào Niết-bàn Tịnh lạc, nhưng đạo phong của Ngài vẫn tồn tại với Tăng Ni Phật Giáo tỉnh BR-VT và trong lòng đệ tử Phật khắp muôn nơi.

Tuy ngôn ngữ trầm phù của thế gian không chuyển tải hết được công hạnh của Hòa thượng, nhưng chúng con cung kính ghi lại vài dòng lược sử của Ngài như một nén tâm hương, đảnh lễ thâm ân của một bậc thạch trụ tòng lâm trong ngôi nhà Phật pháp. Ngưỡng nguyện giác linh Hòa thượng cao đăng thượng phẩm và hồi nhập Ta bà, tiếp tục sứ mệnh cao cả thiêng liêng: Hóa độ chúng sanh đồng về bến giác.

 

Nam Mô Tân viên tịch, Từ Lâm Tế Chánh Tông Tứ Thập Tứ Thế, Việt Nam Phật Giáo Thành Viên Hội Đồng Chứng Minh, Khai Kiến Từ Nhãn Tự, Húy Thượng Nguyên Hạ Trực, Tự Trì Hạnh, Hiệu Diệu Liên, Phạm Công Trưởng lão Hòa Thượng Giác Linh, Thùy Từ Chứng Giám.

 

                                                      Môn Đồ Pháp Quyến

                                                     Đồng phụng soạn                                    

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/11/2010(Xem: 6629)
Hoà Thượng thế danh Diệp Quang Tiền, pháp danh Tâm Khai, tự Thiện Giác, hiệu Trí Ấn Nhật Liên. Ngài sanh ngày 13 tháng 10 năm Quý Hợi (1923) tại thôn Xuân Yên, xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân phụ là cụ Diệp Chí Hoan; thân mẫu là cụ bà Phan Thị Đường. Hai cụ sinh hạ được 5 người con : 4 nam, 1 nữ - Ngài là con thứ trong gia đình, sau anh trưởng là Thầy Diệp Tôn (Thích Thiện Liên). Năm lên 6 tuổi (1928) gia đình Ngài dời về thôn Diên Sanh, xã Hải Thọ, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Thân sinh Ngài đã rước thầy Đồ Nho danh tiếng về nhà để dạy chữ Hán cho hai con. Hai anh em Ngài thường được cụ Đồ khen là thông minh, hứa hẹn một tương lai tốt đẹp. Năm lên 10 tuổi (1932), Ngài theo học Việt Văn tại thôn Diên Sanh.
02/11/2010(Xem: 6924)
Thành kính khẩn bạch đến chư Tôn Đức Tăng Già của quý Giáo Hội, quý Tự Viện, quý tổ chức Phật Giáo cùng toàn thể chư vị thiện nam tín nữ Phật tử: Đại Lão Hòa Thượng thượng Huyền, hạ Ấn, thế danh Hoàng Không Uẩn, sinh năm 1928 tại Quảng Bình, Việt Nam
01/11/2010(Xem: 926)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
01/11/2010(Xem: 33916)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
29/10/2010(Xem: 4723)
Kể từ khi vết tích của chùa Thiên Mụ được ghi lại đơn sơ trong sách Ô Châu Cận Lục vào năm 1553 (1), chùa đã tồn tại gần 450 năm cho đến ngày nay. Trải qua bao nhiêu cuộc bể dâu, chùa vẫn giữ được địa vị và vẫn đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống đạo và đời của dân Huế, nói riêng, và của dân cả nước, nói chung. Qua đầu thế kỷ 17, chùa đã thực sự đi vào lịch sử sau khi Nguyễn Hoàng vào xứ đàng trong để gây dựng cơ nghiệp đế vương với huyền thoại “bà tiên mặc áo đỏ” (9).
23/10/2010(Xem: 4676)
Trong Cây Có Hoa Trong Đá Có Lửa Kính Dâng Hòa Thượng Thích Như Điển nhân dịp mừng thọ 70 tuổi của Ngài và kỷ niệm 40 năm khai sơn Chùa Viên Giác tại Đức Quốc Tỳ Kheo Thích Nguyên Tạng “Trong Cây Có Hoa, Trong Đá Có Lửa” là lời pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên do Hòa Thượng Thích Như Điển nhắc lại trong thời giảng Pháp của Ngài mà tôi đã nghe được khi theo hầu Ngài trong chuyến đi Hoằng Pháp tại Hoa Kỳ năm 2006. Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen) là người Nhật, Ngài sinh năm 1200 và tịch năm 1253, thọ 53 tuổi. Ngài là Sáng Tổ của của Soto-Zen (Thiền Tào Động) của Nhật Bản, và là tác giả bộ sách nổi tiếng “Chánh Pháp Nhãn Tạng” “Ki no naka ni, hana ga aru (Trong cây có hoa), Ishi no naka ni, hi ga aru (Trong đá có lửa)” Đó là pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen), được Hòa Thượng Như Điển dịch sang lời Việt. Lời thơ quá tuyệt vời, tuy ngắn gọn nhưng dung chứa cả một kho tàng giáo lý về Nhân Duyên Quả của Đạo Phật.
23/10/2010(Xem: 4630)
Trong mười thế kỷ phong kiến Việt Nam, Trần Nhân Tông là một trong những ông vua giỏi và tài hoa bậc nhất. Lịch sử đã xem ông là “vị vua hiền” đời Trần, có công lớn trong sự nghiệp trùng hưng đất nước. Văn học sẽ nhớ mãi ông bởi những vần thơ thanh nhã, sâu sắc và không kém hào hùng.
23/10/2010(Xem: 4591)
Về sự nghiệp của vua Trần Nhân Tông, đã có rất nhiều tài liệu và bài viết về hai lần lãnh đạo quân dân nước ta đánh thắng giặc Mông - Nguyên, trị quốc an dân, đối ngoại và mở cõi, nên ở đây chúng tôi không lặp lại nữa, mà chỉ đề cập đôi nét đến nội dung khác về: Trần Nhân Tông - một hoàng đế xuất gia, một thiền sư đắc đạo và là sơ tổ lập nên dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử độc đáo của Việt Nam.
23/10/2010(Xem: 4918)
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa. Bác sĩ Nguyễn Văn Khỏe, một cây cột trụ của hội Lưỡng Xuyên Phật Học cũ đảm nhận trách vụ hội trưởng. Ông Mai Thọ Truyền giữ trách vụ tổng thư ký. Các thiền sư Quảng Minh và Nhật Liên đã triệt để ủng hộ cho việc tổ chức hội Phật Học Nam Việt. Thiền sư Quảng Minh được bầu làm hội trưởng của hội bắt đầu từ năm 1952. Năm 1955, sau khi thiền sư Quảng Minh đi Nhật du học, ông Mai Thọ Truyền giữ chức vụ hội trưởng. Chức vụ này ông giữ cho đến năm 1973, khi ông mất. Hội Phật Học Nam Việt được thành lập do nghị định của Thủ Hiến Nam Việt ký ngày 19.9.1950. Bản tuyên cáo của hội có nói đến nguyện vọng thống nhất các đoàn thể Phật giáo trong nước. Bản tuyên cáo viết: "Đề xướng việc lập hội Phật học này. Chúng tôi còn có cái thâm ý đi đến chỗ Bắc Trung Nam sẽ bắt tay trên nguyên tắc cũng như trong hành động. Sự
23/10/2010(Xem: 4633)
Cư sĩ Mai Thọ Truyền sinh ngày 01-4-1905 tại làng Long Mỹ, tỉnh Bến Tre trong một gia đình trung lưu. Thuở nhỏ ông được theo học tại trường Sơ học Pháp - Việt Bến Tre, rồi Trung học Mỹ Tho, và Chasseloup Laubat Saigon. Năm 1924, ông thi đậu Thư ký Hành chánh và được bổ đi làm việc tại Sài Gòn, Hà Tiên, Chợ Lớn. Năm 1931, ông thi đậu Tri huyện và đã tùng sự tại Sài Gòn, Trà Vinh, Long Xuyên và Sa Đéc. Hành nhiệm ở đâu cũng tỏ ra liêm khiết, chính trực và đức độ, không xu nịnh cấp trên, hà hiếp dân chúng, nên được quý mến.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567