Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tiểu Sử Hòa Thượng Thích Nguyên Trực (1943 - 2018)

16/11/201819:47(Xem: 5400)
Tiểu Sử Hòa Thượng Thích Nguyên Trực (1943 - 2018)

HT Thich Nguyen Truc-6
TIỂU SỬ

TRƯỞNG LÃO HÒA THƯỢNG

THÍCH NGUYÊN TRỰC

(1943 - 2018)

 

- Thành viên Hội đồng Chứng minh Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam

- Chứng minh Ban Trị sự Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam tỉnh Bà Rịa -Vũng Tàu

- Nguyên Phó Trưởng ban Thường trực Ban Trị sự Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu

- Nguyên Trưởng Ban Tăng Sự Ban Trị Sự Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu

- Nguyên Phó Hiệu trưởng Trường Cao Trung Phật Học Đại Tòng Lâm

- Nguyên Phó Ban Quản trị Tổ Đình Vạn Phật Quang Đại Tòng Lâm

- Khai sơn chùa Từ Nhãn, Kp.Vạn Hạnh, P.Phú Mỹ, Tx.Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

 

        I-THÂN THẾ:

 Hòa thượng Thích Nguyên Trực, tự Trì Hạnh, hiệu Diệu Liên, thế danh Phạm Đình Khâm, sinh ngày 08 tháng 03 năm 1943 (Qúy Mùi) tại làng Hội Phú, xã An Ninh, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên, trong một gia đình thuần nông chất phác, sùng tín Tam Bảo.

Thân phụ Hòa thượng là cụ ông Phạm Thành, thân mẫu là cụ bà Mai Thị Ngõ pháp danh Đồng Chính, song thân Ngài sinh được 9 người con, 4 trai và 5 gái. Hòa thượng là con trai thứ 8 trong gia đình; hiện tại chỉ còn Hòa Thượng và em trai út là Hòa thượng Thích Nguyên Trí - trụ trì chùa Bát Nhã tại miền Nam tiểu bang California, Hoa Kỳ.

Đặc biệt, thân mẫu của Hòa thượng cùng với người em ruột là ông Mai Văn Tre (thân phụ Hòa Thượng Thích Quảng Hiển) đều hết lòng thờ kính Tam bảo, phụng sự đạo pháp, nhất là đối với chùa Thiên Hưng, từ việc lớn đến việc nhỏ hai chị em đều chăm lo coi như việc nhà. Do đó, cả hai đều được chư tôn đức thời bấy giờ thương quý, tin tưởng. Nhờ phúc báo đó, hai chị em có đến 4 người con trai xuất gia là Hòa thượng Thích Nguyên Trực, Hòa thượng Thích Nguyên Trí, Hòa thượng Thích Quảng Hiển và Hòa thượng Thích Nhuận Hải. Sau này có thêm một người cháu cũng xuất gia là Sư cô Thích nữ Huệ Chiếu.

 

II. XUẤT GIA - HỌC ĐẠO:

Từ thuở thiếu thời, Hòa thượng đã đầy đủ thiện duyên với Phật pháp. Lúc 7 tuổi, Hòa thượng bệnh liên miên, không phương cứu chữa. Suốt ngày, Hòa thượng nhìn xung quanh, thấy toàn là Phật, nên đảnh lễ ngày đêm không ăn uống. Thấy vậy, cha mẹ bèn đem Hòa thượng ra chùa Thiên Hưng trong làng xin được cầu nguyện. Đến chùa, Hòa thượng tự dưng khỏe hẳn, không muốn về nhà nữa; Hòa thượng xin được ở lại chùa. Sau đó, Hòa thượng được sự chấp thuận của cha mẹ, đảnh lễ Ngài Thiên Hưng, húy Thị Nhật, hiệu Ngộ Tánh, đời thứ 42 dòng Lâm Tế Chúc Thánh làm Thầy thế độ xuất gia vào ngày Rằm tháng 7 năm 1950.

- Năm 1952, Hòa thượng Bổn sư thế độ viên tịch. Giáo hội Tăng già tỉnh Phú Yên cử Hòa thượng Thích Tâm Dung, tự Truyền Diệu, hiệu Liên Phương về trú trì chùa Thiên Hưng. Lúc bấy giờ, Hòa thượng đảnh lễ thọ pháp xin được làm đệ tử của Ngài Tâm Dung và được ban pháp danh là Nguyên Trực, thuộc đời 44 dòng Lâm Tế, môn phái Tổ sư Liễu Quán.

- Năm 1954, em trai của Hòa thượng là Ông Phạm Đình Quế cũng xin cha mẹ xuất gia học đạo với Ngài Tâm Dung và được ban cho pháp danh là Nguyên Trí. (nay là Hòa thượng Thích Nguyên Trí-trụ trì chùa Bát Nhã tại miền Nam tiểu bang California, Hoa Kỳ)

- Năm 1959, Ngài Bổn sư cho Hòa thượng ra tòng học tại Tu Viện Nguyên Thiều - Bình Định dưới sự hướng dẫn của cố Đại lão Hòa thượng Thích Huyền Quang. Cũng tại đây, Hòa thượng được Bổn sư cho thọ giới Sa Di.

 

III.  HÀNH ĐẠO:

- Năm 1963, Sau khi tốt nghiệp tại Phật Học Viện Nguyên Thiều, Hòa thượng về lại chùa Bảo Tịnh-văn phòng Tỉnh Hội tỉnh Phú Yên để phụ công tác của Giáo hội. Sau đó, Ngài được công cử vào trường Bồ Đề tại thành phố Tuy Hòa-tỉnh Phú Yên (do Đại lão Hòa thượng Trí Nghiêm xây dựng năm 1956) để điều hành và giảng dạy.

- Năm 1966, Hòa thượng được Ngài Bổn sư cho phép thọ Cụ túc giới tại Đại giới đàn“Phước Huệ”, tổ chức tại Phật Học viện Trung phần Hải Đức Nha Trang, do Đại lão Hòa thượng Thích Tịnh Khiết - Đệ nhất Tăng Thống làm Đường đầu Hòa thượng.

- Năm 1967, Hòa thượng vào Sài Gòn theo học tại Viện Cao Đẳng Phật Học Huệ Nghiêm. Cũng trong thời gian này, Hòa thượng cùng với Hòa thượng Thích Quảng Hiển thành lập chùa Từ Nhãn, gần khu vực Bà Quẹo, quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh.

- Năm 1971, Hòa thượng muốn tìm nơi thanh vắng tu tập và tiếp Tăng độ chúng, nên Hòa thượng cùng với pháp đệ là Hòa thượng Thích Nguyên Trí ra khu vực núi Thị Vải, xã Phú Mỹ, huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Nai, (nay là Khu phố Vạn Hạnh, phường Phú Mỹ, thị xã Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu) khai sơn chùa Từ Nhãn.

Trong thời gian này, Hòa thượng cùng với Hòa thượng Thích Đồng Huy, Hòa thượng Thích Quảng Hiển, Hòa thượng Thích Nguyên Trí thành lập các làng Phật giáo: Vạn Hạnh, Hộ Pháp, Tịnh Độ, Quảng Phú…

 - Năm 1988, Hòa thượng cùng với Hòa thượng Thích Thiện Phụng, Hòa thượng Thích Minh Hiển, Hòa thượng Thích Nhuận Hải mở Lớp Bổ Túc Giáo Lý cho Tăng Ni khu vực Làng Phật Giáo Vạn Hạnh và Đại Tòng Lâm.

  - Năm 1990, Hòa thượng cùng với Hòa Thượng Thích Đồng Huy, Hòa thượng Thích Quảng Hiển, Hòa thượng Thích Minh Đạt, Hòa thượng Thích Giác Hạnh thành lập Trường Cơ Bản Phật Học Đại Tòng Lâm, (nay là Trường Cao Trung Cấp Phật Học Đại Tòng Lâm) để tiếp tục sự nghiệp đào đạo tăng tài cho Giáo hội.

- Năm 1991, sau khi một phần địa giới của tỉnh Đồng Nai tách ra sát nhập với đặc khu Vũng Tàu - Côn Đảo để hình thành tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, Hòa thượng đảm nhiệm chức vụ Phó hiệu trưởng Trường CTPH Đại Tòng Lâm, cộng tác cùng HT. Thích Quảng Hiển trong công tác giáo dục, đào tạo Tăng tài.

- Năm 1992, Hòa thượng cùng với Hòa thượng Thích Đồng Huy, Hòa thượng Thích Quảng Hiển, Hòa thượng Thích Giác Hạnh,… thành lập GHPGVN tỉnh BR-VT.

- Nhiệm kỳ I (1992-1997), Hòa thượng được Đại Hội Phật giáo tỉnh BRVT suy cử chức vụ Phó Thư ký BTS PG tỉnh BRVT.

- Nhiệm kỳ II (1997 - 2002), Hòa thượng được Đại Hội Phật giáo tỉnh BRVT suy cử chức vụ Trưởng ban Tăng sự tỉnh kiêm Chánh Đại diện Phật giáo huyện Tân Thành.

- Từ năm 1999 - 2001, Hòa thượng mở lớp Sơ cấp Phật học cho Tăng Ni huyện Tân Thành và đảm nhận vai trò Chủ nhiệm.

- Nhiệm kỳ III (2002 – 2007), Hòa thượng được Đại Hội Phật giáo tỉnh BRVT suy cử chức vụ Trưởng ban Tăng sự Phật giáo tỉnh BRVT.

- Nhiệm kỳ IV (2007-2012), Hòa thượng được Đại Hội Phật giáo tỉnh BRVT suy cử giữ chức vụ Phó Trưởng Ban Trị sự kiêm Trưởng ban Tăng sự GHPGVN tỉnh.

- Nhiệm kỳ V (2012-2017), Hòa thượng được Đại Hội Phật giáo tỉnh BRVT suy cử giữ chức vụ Phó Trưởng ban Thường trực Ban Trị sự GHPGVN tỉnh BRVT.

- Nhiệm kỳ VI (2017-2022), Hòa thượng được Đại Hội Phật giáo tỉnh BRVT suy tôn vào Ban Chứng minh - Ban Trị Sự Giáo Hội Phật giáo tỉnh.

- Đại Hội Phật Giáo Toàn Quốc lần thứ VIII (2017-2022)  được tổ chức tại thủ đô Hà Nội, Ngài được Đại Hội suy tôn vào vị trí Thành viên Ban Chứng Minh - Hội Đồng Chứng minh GHPGVN.

- Ngoài ra; Hòa thượng còn làm Tôn chứng cho các Giới đàn Thiện Hòa tổ chức tại Đại Tòng Lâm vào các năm 2000, 2003, 2006, 2009, 2013, 2016. Vào năm 2012 Ban Kiến Đàn Giáo Hội tỉnh Hậu Giang, cung  thỉnh Ngài làm Giáo thọ A Xà Lê tại Giới Đàn Nhật Tiên 3.

- Năm 2016, nhận thấy sự nghiệp hoằng hóa độ sanh của mình sắp mãn, thân tứ đại già yếu không thể duy trì lâu dài, cần phải thực hiện sứ mệnh “Truyền đăng tục diệm”, Ngài đã bàn giao lại mọi công tác của Giáo hội và tìm người kế thừa để tiếp tục duy trì mạng mạch Tông môn và phát huy sự nghiệp hoằng pháp. Điều đó được Ngài gửi gắm trong diễn văn khai mạc lễ bổ nhiệm trụ trì chùa Từ Nhãn ngày 03/03/2017 như sau: Chư Phật, Chư Tổ thường dạy: “Tổ tổ tương truyền, sư sư tương kế, đạo đời một thể viên dung, tùy duyên bất biến, bất biến tùy duyên, truyền trì mạng mạch với trọng trách một sứ giả Như Lai. Thật vậy, đời người không quá 70 hay 100 năm hy hữu bởi định luật vô thường của sinh - lão - bệnh - tử không hẹn cùng người... Hiện tại, tuổi cao sức yếu cần sắp xếp người thay thế kế vị về mặt pháp lý - pháp nhân để an lòng những tháng năm còn lại thực hiện việc “nội cần khắc niệm chi công - ngoại hoằng bất tranh chi đức”.

Cuộc đời Hòa Thượng thật xứng đáng với cái tên mà Ngài Bổn sư đã ban cho, Hòa thượng luôn cương trực, thẳng thắn trong công tác điều hành hành chánh Giáo hội qua các nhiệm kỳ mà hòa thượng đã đảm nhận. Với tâm nguyện hoằng dương Phật pháp, cả cuộc đời Hòa thượng phụng hiến cho Đạo pháp - dân tộc, hết lòng với lý tưởng giáo dục, đào tạo các thế hệ Tăng Ni tài cho Giáo hội Phật giáo Việt Nam; với sứ mệnh “tiếp dẫn hậu lai, báo Phật ân đức”, Hòa thượng đã tiếp nhận và giáo dưỡng hơn 100 đệ tử xuất gia hiện đang trú trì và hoằng dương chánh pháp ở các tỉnh thành trong nước và nước ngoài.

IV . NHỮNG NĂM THÁNG CUỐI CÙNG:

Mặc dù niên cao lạp trưởng, thân mang trọng bệnh, nhưng Hòa thượng vẫn không quên ân giáo dưỡng, nghĩa pháp lữ, tình cốt nhục:

Năm 2013, Hòa thượng đã qua Pháp để tiễn biệt HT. Thích Minh Tâm, viện chủ chùa Khánh Anh, Pháp Quốc.

Năm 2016, Hòa thượng cũng đã phát tâm trùng tu lại tổ đình Thiên Hưng ở Phú Yên; kiến thiết lại bảo tháp hàng trăm năm tuổi đã bị hư hoại của các vị tổ sư, nhất là Bảo tháp của Tổ Thiệt Lãm, Khai sơn Tổ đình Thiên Hưng; di dời tháp Hòa thượng Bổn sư từ Tuy Hòa về lại chùa Tổ.

Năm 2017, Hòa thượng sang Hoa Kỳ thăm pháp đệ lần cuối cùng, là Hòa thượng Thích Nguyên Trí, trụ trì chùa Bát Nhã.

Khi về Việt Nam, dường như dự biết được mình sắp mãn duyên trần, nên Hòa thượng dành thời gian đi thăm các huynh đệ Pháp lữ đồng tu, đồng học, đồng hoạt động Phật sự trong mấy mươi năm qua và đặc biệt Hòa thượng đã không quản ngại đường xá xa xôi, thân lâm đến trú xứ của các đệ tử, từ miền Tây đến Cao nguyên, từ Duyên Hải miền Trung đến tận phương Bắc xa xôi, nhằm động viên sách tấn, căn dặn các môn đệ phải luôn chung sống trong tinh thần lục hòa cộng trụ, trao dồi đạo tâm xây dựng một đời sống an lạc giải thoát và Hòa thượng còn chia sẻ kinh nghiệm tu tập, nghiệp vụ hành chánh Giáo hội cũng như sứ mệnh hoằng pháp lợi sanh. 

 

V. VIÊN TỊCH:

Tịch lặng sơn cao

Đường trần rũ bỏ

Mênh mang trời rộng tiêu dao

Khứ lai vận hành đã tỏ.

Hòa thượng lâm trọng bệnh trong những năm tháng gần đây nhưng vẫn luôn tinh tấn với kệ kinh, khi thì đối trước án Phật trì tụng - lúc  thì mặc niệm trong tâm, miệng không ngưng câu Phật hiệu, tâm chẳng rời tánh chơn như.

Những việc cần làm Hòa thượng đã làm xong, không còn vướng bận các pháp thường tình, duyên trần đã mãn, Hòa thượng an nhiên xả báo thân, viên tịch vào lúc 10 giờ 40 phút, ngày 10 tháng 11 năm 2018 (nhằm ngày mùng 04 tháng 10 năm Mậu Tuất), Phật lịch 2562, tại chùa Từ Nhãn, nơi ghi dấu bước chân hành đạo của Ngài, trong đạo tình và sự hộ niệm của các pháp lữ, tứ chúng đệ tử. Trụ thế 76 năm, 54 Hạ lạp.

Than ôi!

Một bước theo duyên tụ tán

Qua cửa vô môn, kính tiễn biệt Người.

Hòa thượng mỉm cười

Tăng Ni xót dạ

Tấm lòng nhân hậu

Rạng mãi hóa thành.

Từ nay, hoa trắng tung bay khắp trời Vạn Hạnh,

Từ Nhãn lặng thinh, khóc Người vào cõi thiên thu.

Hòa thượng đã thể nhập vào Niết-bàn Tịnh lạc, nhưng đạo phong của Ngài vẫn tồn tại với Tăng Ni Phật Giáo tỉnh BR-VT và trong lòng đệ tử Phật khắp muôn nơi.

Tuy ngôn ngữ trầm phù của thế gian không chuyển tải hết được công hạnh của Hòa thượng, nhưng chúng con cung kính ghi lại vài dòng lược sử của Ngài như một nén tâm hương, đảnh lễ thâm ân của một bậc thạch trụ tòng lâm trong ngôi nhà Phật pháp. Ngưỡng nguyện giác linh Hòa thượng cao đăng thượng phẩm và hồi nhập Ta bà, tiếp tục sứ mệnh cao cả thiêng liêng: Hóa độ chúng sanh đồng về bến giác.

 

Nam Mô Tân viên tịch, Từ Lâm Tế Chánh Tông Tứ Thập Tứ Thế, Việt Nam Phật Giáo Thành Viên Hội Đồng Chứng Minh, Khai Kiến Từ Nhãn Tự, Húy Thượng Nguyên Hạ Trực, Tự Trì Hạnh, Hiệu Diệu Liên, Phạm Công Trưởng lão Hòa Thượng Giác Linh, Thùy Từ Chứng Giám.

 

                                                      Môn Đồ Pháp Quyến

                                                     Đồng phụng soạn                                    

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
06/06/2012(Xem: 13563)
Hòa thượng Thích Quảng Đức, Pháp danh Thị Thủy, Pháp tự Hành Pháp và thế danh là Lâm văn Tức, sinh năm 1897 tại làng Hội Khánh, quận Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa...
30/05/2012(Xem: 7734)
Tín Nghĩa tôi đến định cư Hoa Kỳ vào ngày 19 tháng 09 năm 1979, do nhị vị Hòa thượng Thích Thiên Ân và Hòa thượng Thích Mãn Giác bảo lãnh từ trại tỵ nạn Hongkong. Ngồi tính sổ thời gian thì cũng đã gỡ gần ba chục cuốn lịch. Giá như thời gian này mà ở trong tù thì cũng mục xương và chẳng bao giờ được thấy ánh sáng của thiên nhiên.
27/05/2012(Xem: 18662)
Tác phẩm Trí Quang Tự Truyện bản pdf và bài viết "Đọc “Trí Quang Tự Truyện” của Thầy Thích Trí Quang" của Trần Bình Nam
15/05/2012(Xem: 5290)
Trong đạo lập thân của người xưa – lập công, lập đức, lập ngôn– thì lập ngôn thường được cho là quan trọng nhất, vì đó là phần “hình nhi thượng”, là tinh hoa tư tưởng cá biệt của một dòng đời mang tính truyền thừa lâu dài và sâu xa cho hậu thế. Người đem hết năng lực tinh thần và tri thức của đời mình để lập ngôn thì thành nhà tư tưởng, triết gia. Người đem chất liệu đời mình để viết lại thì thành tác giả tự truyện, hồi ký.
09/05/2012(Xem: 7379)
Sự xuất hiện của Tổ sư Liễu Quán (1667-1742) như là một Bồ tát bổ xứ, thực hiện sứ mệnh lịch sử: Không chỉ duy trì và phát triển mạch sống Phật giáo Việt Nam giữa bối cảnh xã hội tối tăm, Phật pháp suy đồi mà còn thể hiện sự xả thân vì đạo; lập thảo am, ăn rong, uống nước suối, hơn mười năm tham cứu công án, tu hành đắc đạo.
28/04/2012(Xem: 4407)
Nhà văn cư sĩ Huỳnh Trung Chánh, còn có bút hiệu Hư Thân, sanh năm 1939 tại Trà Vinh, quê nội của ông. Suốt quảng đời niên thiếu ông sống nơi quê ngoại tại Cao Lãnh, tỉnh Sa-Đéc, Nam Việt Nam. - Tốt nghiệp Cử nhân Luật Khoa( 1961 ), Đại Học Luật Khoa Saigon. - Tốt nghiệp Cử nhân Phật Học (1967), Phân Khoa Phật Học và Triết Học Đông Phương, Viện Đại Học Vạn Hạnh, Saigon. Là một công chức dưới thời Việt Nam Cộng Hoà, ông đã nổi tiếng thanh liêm, chánh trực và hết lòng dấn thân để phục vụ đại đa số dân chúng Việt Nam theo hạnh Bồ Tát của Phật giáo. Ông đã từng giữ các chức vụ sau đây: - Lục sự tại Toà Án Saigon và Long An (1960 – 1962). - Chuyên viên nghiên cứu tại Phủ Tổng Thống (1962 – 1964). - Thanh Tra Lao Động tại Bộ Lao Động (1964 – 1965). - Dự Thẩm tại Toà Sơ Thẩm An Giang (1965 - 1966). - Chánh Án tại Toà Sơ Thẩm Kiên Giang (1966 – 1969) và Toà Án Long An (1969 – 1971). - Dân Biểu Quốc Hội VNCH tại Thị Xả Rạch Giá (1
26/04/2012(Xem: 17259)
Mùa Phật Đản 1963, có máu, lửa, nước mắt và xương thịt của vô số người con Phật ngã xuống. Nhưng từ trong đó lại bùng lên ngọn lửa Bi Hùng Lực của Bồ Tát Thích Quảng Đức
20/04/2012(Xem: 8211)
Hòa thượng Thích Thiên Ân, thế danh Đoàn Văn An, sinh ngày 22 tháng 9 năm Ất Sửu 1925, tại làng An Truyền, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên. Thân phụ của Ngài là Đoàn Mễ, sau xuất gia là Thượng tọa Thích Tiêu Diêu một bậc tử đạo Vị pháp thiêu thân, thân mẫu là một tín nữ chuyên lo công quả ở chùa Báo Quốc và tu viện Quảng Hương Già Lam, Ngài là con trai thứ trong một gia đình có 4 anh em. Ngài xuất thân trong một gia đình thế gia vọng tộc, có truyền thống kính tin Phật pháp lâu đời. Nhờ duyên gần gũi Tam bảo từ thuở nhỏ, Ngài đã sớm mến cảnh thiền môn với tiếng kệ câu kinh, nên năm lên 10 tuổi (1935), Ngài theo bước phụ thân xin xuất gia đầu Phật tại chùa Báo Quốc, làm đệ tử của Hòa thượng Phước Hậu, được Bổn sư ban pháp danh là Thiên Ân, Ngài tinh tấn chấp tác, học tập thiền môn qui tắc, hầu cận sư trưởng. Năm Tân Tỵ 1941, khi được 16 tuổi, Ngài được Bổn sư cho thọ giới Sa di tại giới đàn chùa Quốc Ân – Huế, do Hòa thượng Đắc Quang làm Đường đầu truyền giới.
08/04/2012(Xem: 4693)
Hòa thượng thế danh Đoàn Thảo, sinh ngày 10 tháng Giêng năm Kỷ Dậu (1909), niên hiệu Duy Tân năm thứ 3 trong một gia đình nhiều đời theo Phật tại xứ Đồng Nà, tổng Phú Triêm Hạ, xã Thanh Hà, huyện Diên Phước, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam (Nay là thôn Đồng Nà, xã Cẩm Hà, thị xã Hội An, tỉnh Quảng Nam). Thân phụ là cụ ông Đoàn Văn Nhơn pháp danh Chơn Quang, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Có. Gia đình Ngài gần chùa Vạn Đức, lại thêm cụ thân sinh là tín đồ thuần thành của chùa, nên từ thuở nhỏ, Ngài thường theo cha đến chùa hàng đêm tụng kinh niệm Phật. Từ đó, chủng tử Bồ Đề lớn dần trong tâm và Ngài tỏ ra những biểu hiện rất có căn duyên với cửa Không môn của nhà Phật.
31/03/2012(Xem: 5461)
Hòa thượng thế danh Dương Đức Thanh, tự Liễu, pháp danh Như Nhàn, tự Giải Lạc, hiệu Trí Giác, nối pháp đời thứ 41 dòng Lâm Tế, thế hệ thứ 8 pháp phái Chúc Thánh. Ngài sinh năm Ất Mão (1915) tại làng Cẩm Văn, huyện Điện Bàn tỉnh Quảng Nam, trong một gia đình nhiều đời kính tín Tam Bảo. Thân phụ là cụ ông Dương Đức Giới pháp danh Chương Đồ, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Phụng pháp danh Chơn Loan. Năm lên 3 tuổi, thân phụ Ngài qua đời, thân mẫu tảo tần nuôi con và cho Ngài theo học chữ Nho với các cụ đồ trong làng, được 5 năm mới chuyển sang học Việt văn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567