Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Ba Thân Mầu Nhiệm

12/07/201818:41(Xem: 8878)
Ba Thân Mầu Nhiệm

an-cu-ky19-day4-qua-duong-kinh-hanh-49
BA THÂN MẦU NHIỆM

Trong mùa an cư, thời quá đường được xem là một trong những phần nghi lễ quan trọng nhất. Vì miếng ăn mà con người có lúc gây ra biết bao tội lỗi, lầm lạc. Thấy được như vậy, chư Tổ đã khéo phương tiện chế ra nghi thức Quá Đường, tức là lúc thọ trai của Chư Tăng vào buổi trưa. Cách ăn này không chỉ không gây ra tội lỗi mà còn làm tăng trưởng thêm công đức, trí tuệ cho cả hàng xuất gia và tại gia. Trong nghi thức Quá Đường có một bài kệ cúng dường mà bất cứ ai đã từng tham dự an cư thì cũng phải thuộc lòng: “ Cúng dường Thanh Tịnh Pháp Thân Tỳ Lô Giá Na Phật, Viên Mãn Báo Thân Lô Xá Na Phật, Thiên Bá Ức Hóa Thân Thích Ca Mâu Ni Phật….”. Sau đây người viết xin được chia sẻ ý nghĩa ba câu trên.

Mỗi Đức Phật đều có ba thân (Tam thân). Pháp Thân, Báo Thân và Ứng Hóa Thân. Pháp Thân là chân lý tuyệt đối của các Pháp, là Như lai, là bản thể của vũ trụ. Bản thể của các Pháp là tuyệt đối thanh tịnh, bất sanh bất diệt. Cho nên gọi là Thanh Tịnh Pháp Thân, nghĩa là bản thân của các pháp hoàn toàn thanh tịnh. Ví dụ như bản thể của nước thì thanh tịnh, nhưng khi gặp gió, nước trở thành sóng là động. Khi gió lặng, nước trở lại bình yên. Đức Phật được tôn xưng là Pháp Vương, là bậc tự tại trong các pháp, làm chủ các pháp. Chúng ta không được gọi là Pháp Vương là vì chúng ta bị các pháp làm chủ. Vui là một pháp, buồn là một pháp. Khen, chê cũng là pháp….hễ cái gì tâm suy tưởng được, mắt nhìn thấy được…thì đều gọi là pháp. Đức Phật tri kiến như thật trước khen chê, thị phi, hơn thua, được mất của vạn sự vạn vật. Còn chúng ta thì bị nó lôi cuốn, dẫn dắt và chìm đắm, nên chúng ta đau khổ trầm luân mãi. Có lần tôi ngâm một bài thơ xong, mọi người vỗ tay khen hay quá. Cả đêm đó mừng tôi ngủ không được. Hai hôm sau tôi gặp người bạn cũng có mặt hôm đó nghe tôi ngâm và đã góp ý chân thành “Thầy hôm kia ngâm thơ nghe như tụng kinh”. Ngâm thơ mà nghe giống tụng kinh là đã bị chê dỡ rồi, sau đó tôi buồn và giận người bạn đó đến mấy ngày. Ngồi suy ngẫm lại, đúng là mình bị các pháp sai khiến, mình là người đầy tớ trung thành của chúng. Mình đã không làm chủ được trước khen chê. Bản chất của lời khen tiếng chê đó thực sự chẳng có gì đáng buồn hay vui cả. Nếu chúng ta biết chỉ dừng lại ở chỗ nghe và hiểu thôi, thì mọi cái êm xuôi, đâu có giận, đâu có vui làm gì. Nhưng bởi vì mình chấp vô nó nên mình khổ. Vậy muốn giải thoát giác ngộ như Phật, mình phải thấy các Pháp như thật tánh của nó là thanh tịnh. Nước bị gió làm động, nhưng nước không vì đó mà buồn hay vui.

Thân thứ hai của Phật là Viên Mãn Báo Thân. Báo thân thì ai cũng có, nhưng có được cái báo thân viên mãn thì phải tu cho đến khi hoàn toàn giác ngộ mới có. Viên mãn nghĩa là tròn đầy. Sinh ra được làm người đã là phước báo rồi. Bởi thân người khó được. Được sáu căn: Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý được trọn vẹn là phước báo thêm nữa. Nếu sinh ra có thân tướng cao ráo, đẹp trai, thông minh học giỏi, tánh tình cao thượng là phước báo cao hơn nữa. Nhưng tới đó cũng chưa phải là viên mãn. Có người ưu cái này thì khuyết cái kia. Người có tài thì lại không có đức và ngược lại v.v. Đức Phật có 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp. Chúng ta thường hay tán thán báo thân Phật qua bài kệ: “Phật Diện du như tịnh mãn nguyệt, diệt như thiên nhật phóng quang minh, viên quang phổ chiếu ư thập phương, hỷ xả từ bi giai cụ túc”. Nghĩa là: “Mặt Phật sáng tựa trăng tròn, giống như mặt trời phóng quang minh, ánh sáng tỏa chiếu khắp mười phương, đầy đủ đức tính từ bi và hỷ xả. Những người có phước báu lớn, có lòng từ bi lớn, chúng ta nhìn họ hoặc giao tiếp với họ, chúng ta sẽ cảm nhận được sự bình an tỏa ra từ con người của họ và có ảnh hưởng tích cực đến tâm chúng ta. Trong kinh Di Đà có nói: Khi hành giả sanh về cảnh giới Cực Lạc thì được sống chung với các bậc thiện hữu trí thức (Đắc dữ như thị chư thượng thiện nhơn câu hội nhứt xứ), bởi vì nơi đó y báo và chánh báo đều trang nghiêm thanh tịnh. 

Thân thứ ba là Hóa Thân, hay Ứng hóa thân. Từ Pháp Thân thanh tịnh nên có Báo Thân viên mãn. Từ Báo thân viên mãn, Đức Phật đã sử dụng ứng hiện nhiều hóa thân khác nhau để giáo hóa chúng sanh. Hóa thân là phương tiện tùy căn cơ chúng sanh mà giáo hóa. Chúng sanh có vô lượng phiền não, có hàng trăm, hàng ngàn căn cơ khác nhau thì Đức Phật cũng có thiên bá ức hóa thân để độ họ. Trong một ngày, chúng ta cũng có những hóa thân khác nhau. Đến công sở chúng ta hóa thành một công nhân chăm chỉ làm việc theo ý chủ, về nhà lại trở thành chủ nhà, một người cha mẫu mực, một người mẹ hiền từ. Đến bác sĩ mình là bịnh nhân để chữa bịnh, đến chùa mình là người Phật tử của Đức Thế Tôn… Sự hóa thân của chúng ta chỉ giới hạn riêng cho mình thôi và có lúc có nhiều khuyết điểm. Có người quen thói làm gia trưởng ở nhà với vợ với con rồi, nên khi ra xã hội cũng giữ nguyên cái tính đó đối xử với những người đồng nghiệp hay sếp của mình thì hỏng việc. Người khôn khéo, sống với ai cũng dễ thương, làm việc gì cũng hoàn tất, nói cái gì ra người ta cũng nghe. Người không khôn khéo mới mở miệng ra là đã bị người ta chống đối rồi. Vậy thì làm sao lãnh đạo họ được, giáo hóa họ được. Đức Phật là bậc có tuệ giác vô thượng, nên sau khi thành Đạo, Ngài đã giáo hóa và thu nhiếp nhiều tầng lớp trong xã hội. Từ những người cùng đinh trong xã hội cho đến các bậc vua chúa, giáo chủ…, như Tần Bà Sa La vua nước Ma Kiệt Đà hùng mạnh, Giáo chủ đạo thờ lửa như Ngài Ca Diếp, và kẻ sát nhân không gớm tay như ông Ưng Quật Ma…. Đều trở thành những đệ tử của Phật. Nếu chúng ta tự hỏi: Tại sao đức Phật giỏi đến như vậy? Chỉ đơn giản là năng lực hóa thân của Đức Phật hết sức hoàn hảo hay còn gọi là vi diệu của Tứ nhiếp pháp.

Khi Quá Đường, chúng ta nâng chén cơm lên để ngang trán, tay trái kiết ấn Tam Sơn, (Tam vô Lậu) còn tay kia kiết ấn Cam Lồ (Từ Bi) để cúng dường Tam Thân của Phật và chư vị Bồ Tát bằng tất cả lòng thành kính trước khi ăn nghĩa là chúng ta đang mở lòng tiếp nhận những năng lượng Từ Bi, Trí Tuệ của Phật qua bát cơm đầy của tín thí cúng dường là để phát triển Tam Thân như Phật nơi mỗi con người chúng ta.

Mùa An Cư, kỳ 19, Adelaide 12/7/18
Thích Viên Trí

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
29/03/2013(Xem: 5715)
Nói đến thơ và nền Triết Học lưu xuất từ Tư Tưởng Phật học Tánh Không hay một Triết lý phiêu bồng từ Đông sang Tây của thế tục đế, hầu như đã được tồn đọng trong con người gầy guộc, nhỏ nhắn, dáng dấp phiêu diêu, lãng đãng như sương sớm, mây chiều.
29/03/2013(Xem: 5521)
Những năm tháng dùi mài kinh điển trong các tự viện để thể nhập Phật học huyền vi, u hiển, một thời nào đó đã lầu thông giáo lý cao siêu giải thoát, hướng thân lập mệnh trên con đường giác ngộ, để rồi hôm nay là thành quả hiển nhiên có được tận cùng tâm hồn sâu thẳm mà Thầy đang phô diễn như ý nghĩa cao siêu của Đại Bi Tâm.
29/03/2013(Xem: 5783)
Đây là chủ đề bài thuyết trình của diễn giả Nguyên Siêu, tác giả 650 trang sách trong tác phẩm “Tuệ Sỹ Đạo Sư, Thơ, Và Phương Trời Mộng” tập 1 và tập 2 vừa hoàn thành và được chính thức ra mắt tại hội trường của Hiệp Hội Người Việt tại San Diego, miền Nam California.
29/03/2013(Xem: 11930)
Tôi người Quảng Bình, 1 trong 3 nơi mà Huyền Trân công chúa mới đáng là thành hoàng. Tổ tiên gốc người Hải dương, 4 cha con cùng có mặt trong đạo quân tiếp quản Quảng Bình, rồi định cư ở 3 làng. Thuận Lý là con trưởng, kế đó, Phương Xuân là con thứ 2. Diêm điền, làng tôi, là nơi Tổ của làng tôi cùng con út định cư.Làng tôi cách trung tâm tỉnh lỵ Quảng bình chỉ có chừng 600 mét đường chim bay.
27/03/2013(Xem: 11867)
Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư, Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn - lần 01 (2007, Canada) Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn - lần 02 (2008, Hoa Kỳ) Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn - lần 03 (2019, Hoa Kỳ) Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn - lần 04 (2010, Đức) Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn - lần 05 (2011, Pháp) Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn - lần 06 (2012, Úc) Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn - lần 07 (2013, Hoa Kỳ) Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn - lần 08 (2014, Úc) Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn - lần 09 (2015, Pháp) Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn - lần 10 (2016, Canada) Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn - lần 11 (2018, Pháp) Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn - lần 12 (2020, Úc)
18/03/2013(Xem: 6276)
Viện Đại học Vạn Hạnh ở Sài Gòn, thủ đô miền Nam Việt Nam, trước năm 1975 là một trung tâm văn hóa Phật giáo nổi tiếng lừng lẫy. Nơi đây đã quy tụ biết bao hào kiệt trượng phu, biết bao tao nhân mặc khách, biết bao giáo sư, triết gia cự phách thượng đẳng. Đặc biệt là các thiên tài xuất chúng siêu việt như Phạm Công Thiện, Tuệ Sỹ, Lê Mạnh Thát, nổi bật nhất là Bùi Giáng, một thi sĩ kỳ dị, xưa nay chưa từng thấy xuất hiện trên bầu trời văn nghệ Việt Nam và thế giới.
11/03/2013(Xem: 6981)
Lê Quý Đôn (1726-1784) là một danh sĩ, nhà văn hóa, sử gia, sống vào đời Hậu Lê. Ông không những ba lần thi đều đỗ đầu, kinh qua nhiều chức quan, đã từng đi sứ sang Trung Quốc, mà còn là một nhà bác học, đã để lại một gia tài đồ sộ bao gồm khoảng 16 tác phẩm và nhiều thơ, phú bằng chữ Nôm khác. [1] Trong số những tác phẩm ấy, có Kiến văn tiểu lục, [2] là một tác phẩm dành riêng quyển 9 – thiên Thiền dật, để viết về Phật giáo và Thiền tông Phật giáo Việt Nam, chủ yếu là những vị Tổ thuộc Thiền phái Trúc lâm. Trong bài viết ngắn này, chúng ta thử chỉ tìm hiểu quan điểm của Lê Quý Đôn về Phật giáo, mà không bàn sâu đến phần Thiền tông Việt Nam mà ông đã chép.
21/02/2013(Xem: 7575)
Hòa thượng Thích Tâm Giác, thế danh là Trần Văn Mỹ, sinh năm 1917 tại tỉnh Nam Định, thân phụ là cụ ông Trần Văn Quý, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Suôi. Ngài là con trai thứ hai trong gia đình gồm hai trai một gái. Ngài sinh trưởng trong một gia đình Nho phong. Thân phụ Ngài tinh thông Hán học. Cả hai ông bà lại rất thâm tín Phật pháp. Do đó, Ngài được hấp thụ ngay từ thuở ấu thơ hai nền văn hóa cổ truyền của dân tộc là Khổng giáo và Phật giáo.
19/02/2013(Xem: 8968)
Mới đây các nhà khảo cổ Mỹ và Canada đưa ra chứng cứ cho rằng Phật giáo đã được truyền vào Mỹ trước khi ông Columbus tìm ra châu Mỹ. Tuy nhiên, theo các tài liệu có được hiện nay thì Phật giáo chỉ thật sự có mặt tại Mỹ sau kỳ Đại hội Tôn giáo Thế giới tổ chức tại bang Chicago vào năm 1893. Nhưng ai là người có công truyền bá và làm lớn mạnh "hạt giống Bồ đề" trên đất Mỹ? Trong bài này, chúng tôi sẽ giới thiệu một số nhà sư cư sĩ người châu Á, những người tiên phong có công đặt nền móng xây dựng ngôi nhà chánh pháp trên đất Mỹ.
10/02/2013(Xem: 10267)
Từ những con người bình thường, không được sinh ra ở cung vàng điện ngọc, nhưng rồi trở thành những vị vua anh minh tài kiêm văn võ, tư tưởng và nhân cách cao siêu, mãi còn đọng lại với thời gian. Dù sống ở hoàng cung nhưng tâm lúc nào cũng vượt thoát, làm bậc đế vương nhưng hạnh vẫn là một sơn Tăng, ưa vui với gió nội mây ngàn, thở nhịp cùng đất trời nhân gian cây cỏ. Để rồi trở thành những người con Phật vĩ đại, trí tuệ và công hạnh thắm đượm cả không gian, thức tỉnh chúng ta trên bến bờ sinh tử của mê ngộ, đậm nét trong lòng người đến tận hôm nay. Bồ Tát Lương Võ Đế ( 463-549 ) của Trung Hoa và Trần Thái Tông ( 1218-1277) của Việt Nam, dù ở hai phương trời xa cách, sinh ra ở hai thời điểm khác nhau, nhưng cùng chung một tấm lòng, mang an lạc thịnh vượng đến cho nhân dân, và một hạnh nguyện chuyển hoá cứu độ quần sanh.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]