Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Buông Xả

12/07/201817:41(Xem: 10426)
Buông Xả

an-cu-ky19-day4-qua-duong-kinh-hanh-69BUÔNG XẢ

Chúng ta hiện đang sống trong một thế giới đầy đủ tiện nghi vật chất, nhưng hầu như đa số con người sống trong cảnh bất an, căng thẳng, sống vội sống vàng. Những khổ đau luôn chồng chất, đôi lúc chúng ta không rõ nguyên nhân gây ra sự đau khổ ấy từ đâu?

Cuộc đời chỉ là giấc mộng, tạo tác vô lượng nghiệp chỉ vì miếng cơm, manh áo, danh lợi, địa vị, vật chất. Sự mong cầu thọ hưởng ngũ dục làm cho con người đánh mất bản tâm thanh tịnh của chính mình, sống trong cuồng si thác loạn. Sự khao khát tìm cầu đủ thứ không biết đủ để cung phụng cho bản ngã đó là nguyên nhân làm cho con người khổ đau và gây khổ đau cho người khác.

Trong Tăng Chi Bộ Phật có dạy:

"Này các Thầy Tỳ Kheo,  hãy buông bỏ những gì là bất thiện, này các Thầy! Ta có thể buông bỏ những gì là bất thiện, nếu như việc ấy không thể thực hiện được, thì ta đã không khuyên bảo các Thầy mà làm chi.

Nếu như buông bỏ những điều bất thiện, mà mang lại khổ đau ta đã không khuyên bảo các Thầy làm chi, nhưng vì sự buông bỏ ấy mang lại hạnh phúc và nhiều lợi lạc, thì ta mới nói với các Thầy, hãy buông bỏ những gì là bất thiện".

Phật dạy chúng ta buông bỏ những gì là bất thiện, nhưng bằng cách nào?

Trong Kinh Nikaya Đức Thế Tôn nói nguyên nhân đưa đến sự khổ đau cho mình và người để nhắc nhở Rahula tu hành:

"Này Rahula con nghĩ thế nào? Mục đích của cái gương là gì?

- Bạch Đức Thế Tôn! Mục đích là để phản tỉnh.

- Cũng vậy, này Rahula, sau khi phản tỉnh nhiều lần, hãy hành thân nghiệp, hãy hành khẩu nghiệp, sau khi phản tỉnh nhiều lần hãy hành ý nghiệp.

Này Rahula! Khi con muốn làm một thân nghiệp, khẩu nghiệp, hay ý nghiệp gì, hãy phản tỉnh như sau: thân nghiệp này, khẩu nghiệp này, ý nghiệp này của ta có thể đưa đến sự tự hại, có thể đưa đến hại người, có thể đưa đến hại cả hai, thời thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp này là bất thiện, đưa đến đau khổ, đem đến quả báo đau khổ. Này Rahula, nếu trong khi phản tỉnh con biết, thân nghiệp, khẩu nghiệp , ý nghiệp này ta muốn làm, có thể đưa đến tự hại, có thể đưa đến hại người, có thể đưa đến hại cả hai, thì thân, khẩu, ý này là bất thiện, đưa đến khổ đau, đem đến quả báo đau khổ, như vậy này Rahula, con nhất định chớ có làm.

Này Rahula con cần phải thưa lên, cần phải tỏ lộ, cần phải trình bày trước các vị Đạo sư hay trước các vị đồng phạm hạnh có trí, sau khi đã thưa lên, tỏ lộ, trình bày, con cần phải phòng hộ trong tương lai. Nếu trong khi phản tỉnh, này Rahula con biết như sau: Thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp này ta đã làm, không đưa đến tự hại, không đưa đến hại người, không đưa đến hại cả hai, thời thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp này là thiện đưa đến an lạc, đưa đến quả báo hạnh phúc. Do vậy này Rahula, con phải an trú trong niềm hoan hỷ, tự mình tiếp tục tu học ngày đêm trong các thiện pháp".

Đức Thế Tôn phản tỉnh cho Rahula qua chiếc gương soi để thấy rằng đời sống chúng ta bị nhiễm độc, chính là hành động của thân khẩu ý, tiêu cực tham ái, sân hận, kiêu mạn, đố kỵ, si mê của mình kết quả đưa đến sự tổn thương cho cá nhân gia đình xã hội và con người v. v . . . Vì cuộc đời không giản đơn như mình nghĩ, mặc dù tránh xa những hệ lụy, chúng ta vẫn bị cái tôi làm cản trở con đường tu tập, ai cũng muốn cố gắng dẹp bỏ bản ngã vị kỷ lần lần, nhưng hầu như chúng ta không làm được, cũng chỉ vì coi cái tôi là quan trọng nên mới phát sanh mọi tội lỗi, cố chấp, tự ty . . . Rồi tức giận khi bị người chê bai, vui sướng mát ruột khi được người khen. Làm được một điều gì cho người thì nhớ mãi trong lòng, nhưng lại quên mất những điều người đã làm cho mình, lúc nào cũng muốn hơn, tất cả cũng chỉ vì ái ngã thôi.

Quay về để phản tỉnh sanh diệt của thân, khẩu, ý, ta biết điều gì mang đến sự bất an, khổ đau cho mình và người thì phải từ bỏ, những điều gì đưa đến sự an lạc và hạnh phúc ta phải biết nắm bắt và thực thi, như Đức Phật đã dạy một điều: Đó là sự khổ và cách thoát khổ.

Cẩm nang để cho chúng ta bước đi trên lộ trình giải thoát đó là tập hạnh buông xả, chuyển hóa tham, sân, si từ những kinh nghiệm sống chính mình bằng tuệ giác. Phản tỉnh giúp chúng ta thấy được nguyên nhân tham ái và chấp ngã. Thực hành hạnh buông xả để đạt đến vô tham, vô sân, vô si, giải thoát khỏi gánh nặng của việc bám chấp vào ngã ái, ngã si của mình. Chúng ta thấy việc buông xả cần thiết như đói cần phải ăn thì khả dĩ mới nhẹ đi những điều trái tai gai mắt đi ngang qua cuộc đời.

Học buông xả giúp cho chúng ta biết cách ứng xử trước những nghịch cảnh xảy ra, phản tỉnh để thấy tất cả chỉ là giả hợp tạm bợ, không tồn tại, chuyển biến sanh diệt không phân biệt, chấp trước mọi ý niệm liên hệ đến cái ngã. Thực hành nếp sống vô ngã sẽ cho ta sự bình an ngay trong cuộc đời đầy biến động này.

Chuyện kể: Có một anh chàng nọ vác một bao cỏ nặng trĩu, đi qua không biết bao nhiêu chặng đường, dọc đường có một người lại gởi anh một ít đồ vật nữa, anh ta đều vui vẻ nhận bất kể đồ vật đó nặng hay nhẹ.

Lâu sau anh ta gặp một vị tốt bụng bảo anh nên vất bỏ bao cỏ ấy đi vì nó không cần thiết, anh ta nghe lời làm theo và cảm thấy khỏe khoắn biết bao khi gánh nặng không còn.

Trong đời sống con người có biết bao nhiêu thứ danh lợi, địa vị, vật chất tiền tài, biết bao nhiêu niềm đau được mất, buồn vui đi ngang qua cuộc đời, sống để dạ chết mang theo chứ không muốn buông bỏ thứ gì. Dẫu vẫn biết cuộc đời là giả tạm không thật, dẫu vẫn biết khổ đau khi bị trói buộc trong tham lam, sân hận, si mê, thế gian là thế đó.

Vác, mang, khiêng, quảy … đều mệt nhọc, buông, quăng, bỏ … thiệt là khỏe! vậy mà tại sao chúng ta không chịu buông?

Một ví dụ nhỏ: Hai người bạn cãi nhau, nếu biết phản tỉnh quay về nhìn lại mình, buông bỏ mọi ý thức phân biệt chấp trước, nói một lời "sorry" thì tình bạn đẹp biết bao. Sorry không phải mình sai, mà ta hiểu được và trân trọng những gì chung quanh mình. Nghĩ cho cùng, sống phản tỉnh buông bỏ mọi kiến chấp sai lầm để sống an hòa, cảm thông chia sẻ với những người sống chung quanh, đó mới là một lối sống đẹp đời hợp đạo, để làm gì bạn biết không? Để có được niềm an lạc hạnh phúc thiết thực cho đời này và đời sau.

 

                                                                                                          TKN Huệ Nhẫn

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/06/2011(Xem: 6936)
Cuộc đời và sự nghiệp của Khương Tăng Hội, ta hiểu biết qua hai bản tiểu sử xưa nhất, một của Tăng Hựu (446 - 511) trong Xuất tam tạng ký tập 13 ĐTK 2145 tờ 96a29-97a 17 và một của Huệ Hạo trong Cao Tăng truyện 1 ĐTK 2059 tờ 325a13-326b13. Bản của Huệ Hạo thực ra là một sao bản của bản Tăng Hựu với hai thêm thắt. Đó là việc nhét tiểu sử của Chi Khiêm ở đoạn đầu và việc ghi ảnh hưởng của Khương Tăng Hội đối với Tô Tuấn và Tôn Xước ở đoạn sau, cùng lời bình về sai sót của một số tư liệu. Việc nhét thêm tiểu sử của Chi Khiêm xuất phát từ yêu cầu phải ghi lại cuộc đời đóng góp to lớn của Khiên đối với lịch sử truyền bá Phật giáo của Trung Quốc, nhưng vì Khiêm là một cư sĩ và Cao Tăng truyện vốn chỉ ghi chép về các Cao Tăng, nên không thể dành riêng ra một mục, như Tăng Hựu đã làm trong Xuất tam tạng ký tập 13 ĐTK 2145 tờ 97b13-c18, cho Khiêm.
31/05/2011(Xem: 17790)
Quy ẩn, thế thôi ! (Viết để thương một vị Thầy, mỗi lần gặp nhau thường nói “mình có bạn rồi” dù chỉtrong một thời gian rất ngắn. Khi Thầy và tôi cách biệt, thỉnh thoảng còn gọi điệnthoại thăm nhau) Hôm nay Thầy đã đi rồi Sắc không hai nẻo xa xôi muôn ngàn Ai đem lay ánh trăng vàng Để cho bóng nguyệt nhẹ nhàng lung linh Vô thường khép mở tử sinh Rong chơi phù thế bóng hình bụi bay Bảo rằng, bản thể xưa nay Chơn như hằng viễn tỏ bày mà chi
27/05/2011(Xem: 9467)
Vào năm 247, một vài năm sau khi Chi Khiêm rời khỏi kinh đô Kiến Nghiệp, Khương Tăng Hội, một vị cao tăng gốc miền Trung Á, đã đến đây. Ngài đến từ Giao Chỉ, thủ phủ của Giao Châu ở miền cực Nam của đế quốc Trung Hoa (gần Hà nội ngày nay). Gia đình của Ngài đã sinh sống ở Ấn độ trải qua nhiều thế hệ; thân phụ của Ngài, một thương gia, đến định cư ở thành phố thương mại quan trọng này.
25/05/2011(Xem: 5090)
Đại lão Hòa Thượng Thích Đồng Huy HT. Thích Đồng Huy - Thành viên HĐCM, Ủy viên HĐTSTW GHPGVN, Trưởng ban Trị sự Phật giáo tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, Trưởng ban Quản trị Đại Tòng Lâm, Viện chủ Tu viện Vạn Hạnh.
05/05/2011(Xem: 5698)
Từ hôm hay tin Thầy lâm bịnh và tiếng nói yếu ớt của Thầy qua điện thoại làm con rất lo. Nhiều năm qua con cố gắng về thăm Thầy một lần nhưng ước vọng đơn sơ ấy đã không toại nguyện. Hơn hai mươi năm con xa Thầy, xa Tu viện, xa đồi núi thương yêu thưở nào. Mai này nếu được về thăm thì thầy đã ra đi biền biệt.
23/04/2011(Xem: 5275)
Thầy đã đọc toàn bộ bài “Tham luận” Nhân trong ngày “Hội thảo” nhớ “Tổ Sư”, Sự nghiệp tu chứng đắc lý chơn như “Ngài Liễu Quán”, sáng gương ngàn thế hệ.
21/04/2011(Xem: 8127)
Hòa Thượng THÍCH BẢO AN, húy thượng THỊ hạ HUỆ tự HẠNH GIẢI, thế danh LÊ BẢO AN, thuộc đời Lâm Tế Chánh Tông thứ Bốn mươi hai.
16/04/2011(Xem: 7100)
Kính lạy thầy, Trước mắt con là di bút Thầy để lại, nét chữ thân quen với màu mực còn đậm nét tinh khôi. Nghiệp đã qua rồi lòng nhẹ nhõm Ngàn xưa mây bạc vẫn thong dong Thầy vừa an nhiên xã bỏ báo thân, dãi mây bạc giờ nương theo gió loãng tan mất dấu. Nẻo sinh tử Thầy thong dong qua lại, như đi trên những dặm đường quen để gieo trồng hạt giống từ bi, giáo hóa, độ sinh. Thân bệnh Thầy mang trong những năm tháng sau này, cho con biết rõ vô thường tất đến. Vậy mà nỗi đau đớn, bàng hoàng vẫn khơi động trong con khi đón nhận tin xa, bởi từ đây con vĩnh viễn mất Thầy trong kiếp sống này.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]