Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Lại Một Mùa An Cư Vắng bóng Ôn

11/07/201810:14(Xem: 9101)
Lại Một Mùa An Cư Vắng bóng Ôn

 

 

 TT Nguyen Tang 5

 

Lại Một Mùa An Cư

vắng bóng Ôn

 

 

Nghiệp đã qua rồi lòng nhẹ nhõm
Ngàn xưa mây trắng vẫn thong dong.

 

Đã ba lần Thu tàn Đông đến, ba mùa An Cư thiếu vắng Ôn Như Huệ. Có lẽ Ôn đang an nhàn mỉm cười nơi cảnh Phật. Bầu trời Adelaide, Nam Úc, mây trắng vẫn thong dong bay, nhưng đại chúng tại Pháp Hoa Tổ Đình lại cảm thấy như có một đám mây u buồn giăng phủ, vì dường như ở nơi này, vị trí nào cũng khiến mọi người hình dung ra bóng dáng thân thương của Ôn năm nào. Tâm tư ai cũng vương buồn với nỗi niềm kính thương luyến tiếc.

 

Từ ngày GH Hải Ngoại thành lập (1999) đến nay, GH đã tổ chức 18 khóa An Cư khắp liên bang Úc, mỗi năm mỗi tiểu bang khác nhau, riêng tại Tổ Đình Pháp Hoa Nam Úc, đã tổ chức ba kỳ trước đây là 2000, 2007, 2017 và năm nay 2018, khóa An Cư kỳ 19 tiếp tục được tổ chức tại Tổ Đình Pháp Hoa, Nam Úc. Đây cũng là chủ đích của Giáo Hội, để trong khóa an cư lần này tại Tổ đình Pháp Hoa, toàn thể chư Tôn Thiền Đức và hàng Phật tử được tham dự lễ Đại Tường của Ôn Như Huệ, Ngài đã ra đi vào mùa An cư lần thứ 17 năm 2016.

 

Tôi nhớ năm 2016, nhân lúc về thăm Ôn lần cuối vào trung tuần tháng 6, nắm lấy tay tôi lúc từ biệt, Ôn nói: “Cảm ơn TT Nguyên Tạng về thăm tôi, nhất định tôi sẽ xuống Tu Viện Quảng Đức dự khóa An Cư của GH năm nay để cùng chia sẻ Phật sự nặng nề của Thượng Tọa Viện Chủ Thích Tâm Phương & cùng Thượng Tọa”. Không ngờ đó là lời nói sau cùng của Ôn mà đến nay như vẫn còn văng vẳng bên tai tôi.

 

Tôi biết Ôn lúc nào cũng tha thiết về hai sinh hoạt chính của GH là Khóa An Cư dành cho giới Xuất Gia giữa năm và khóa tu Học Phật Pháp Úc Châu dành cho giới Phật tử tại gia cuối năm. Đã gần 20 năm rồi, bất cứ lúc nào và ở đâu, Ôn cũng có mặt đầy đủ tại hai khóa tu này. Cho đến năm 2016, khóa An Cư kỳ 17, dù trước ngày viên tịch, thân lâm trọng bệnh, tứ thể bất an, nhưng Ôn vẫn kỳ vọng sẽ về tham dự Khóa An Cư tại Tu Viện Quảng Đức, nhưng cuối cùng Ôn đã thu thần viên tịch trước ngày khai mạc khóa An Cư một tuần lễ.

 

Tôi nhớ Ôn quá qua những chén trà đàm vào sáng sớm mỗi mùa An Cư, có lúc ở Pháp Bảo, có lúc ở Quảng Đức, có lúc ở Vạn Hạnh, có lúc ở Minh Quang… ở đâu và sáng nào tôi cũng tìm đến để hầu trà Ngài. Câu chuyện trà đạo của Ôn lúc nào cũng hấp dẫn với nhiều đề tài khác nhau, phần lớn tôi ngồi lắng nghe Ôn hoài niệm lại những quá khứ oai hùng của Ngài từ những năm lãnh đạo tại Quảng Nam. Ôn hay nhắc lại những người bạn đồng song cùng làm việc với nhau, nhất là HT Thích Chơn Phát, là một trong “Tứ Trụ Quảng Nam”, hai Ngài đi hoằng pháp các nơi trên 1 chiếc xe đạp trành, nhưng tài xế là Ôn, vì HT Chơn Phát không biết lái xe đạp, qua suối, qua sông Ôn phải vác xe đạp lên vai để đi, rất cực khổ nhưng quý Ôn vẫn kiên gan bền chí tiến về phía trước để mang ánh sáng Chánh Pháp đến cho người.

 

Năm 1975, đất nước đổi thay, sinh hoạt thay đổi, Ôn đã tìm đến bến bờ tự do. Sau 18 ngày lênh lênh trên biển cả, Ôn được tàu Nhật vớt và tạm trú tại Nhật Bản, Ôn phải đi làm việc trong các cơ xưởng của Nhật để sống qua ngày, “an bần thủ đạo” đợi ngày đi định cư ở nước thứ ba. Sau đó, Ôn đến định cư tại Adelaide cho đến ngày viên tịch. Trong thời gian ở Nhật, Ôn ấp ủ trong lòng những ước mơ dự định sẽ xây dựng một ngôi chùa để có nơi thờ Phật, hầu duy trì nền văn hóa Việt nơi xứ lạ quê người. Vì rằng:


“Mái chùa che chở hồn dân tộc,

Nếp sống muôn đời của Tổ tông”


Và:

“Quê tôi có gió bốn mùa
 Có trăng giữa tháng, có chùa quanh năm.
 Chuông hôm, gió sớm, trăng rằm
Chỉ thanh đạm thế, âm thầm thế thôi”


Nên khi được đến Nam Úc do một nhóm Phật tử ở Adelaide, qua sự giới thiệu của HT Thích Như Điển ở Hannover, Đức quốc, đã bảo lãnh thỉnh Ngài qua để làm Phật sự tại Nam Úc, Ôn đã cùng với Ban Hộ Trì Tam Bảo (lúc đó Hội Trưởng là bác Thiện Liên Nguyễn Văn Tươi) tiến hành xây dựng ngôi già lam Pháp Hoa, một ngôi chùa có dáng dấp như Tổ Đình Chúc Thánh Hội An, ngôi chùa mà Ôn xuất gia tu học từ thuở nhỏ ở quê nhà. Năm 1986 khi Thiền Sư Nhất Hạnh đến Úc hoằng Pháp, Ôn thỉnh Ngài về thăm Pháp Hoa thuyết giảng, chính tại nơi đây TS Nhất Hạnh đã khen ngợi ngôi phạm vũ Pháp Hoa và đề nghị danh xưng Tổ Đình kể từ đó. Kỳ thực Tổ đình được xem là chùa Tổ, nơi bắt đầu của một pháp phái do một vị Tổ sư khai sáng như Tổ Đình Chúc Thánh ở Hội An (do Tổ Minh Hải Pháp Bảo khai sơn); Tổ Đình Thiền Tôn ở Huế do Tổ Liễu Quán xây dựng…tại Úc, Chùa Pháp Hoa do Ôn Như Huệ khai sơn xây dựng và xứng đáng được tôn xưng là Tổ Đình, vì Ôn là Trưởng Môn Phái Chúc Thánh Hải Ngoại.

 

Hình ảnh ngôi chùa và sứ mạng lãnh đạo GH luôn gắn liền với cuộc đời tu tập và hành đạo của Ôn. Ôn Như Huệ là người hoài cổ, tức làm việc gì Ôn cũng suy gẫm và nhớ về quá khứ oanh liệt một thời của Giáo Hội PGVN Thống Nhất ở quê nhà, để từ đó làm nền tảng cho tất cả mọi công việc tương lai. Bên trong gian nhà Tổ Pháp Hoa, Ôn Như Huệ có treo một bức hình khổ lớn về ngôi Chùa Tổ Chúc Thánh Hội An cổ kính, như để nhắc nhở Ôn về nguồn gốc truyền thừa mạng mạch Phật Pháp mà Ôn đã thừa hưởng.

 

Bên chén trà, tôi vinh hạnh được nghe Ôn Như Huệ đọc lại những bài thơ, những bài kệ thán mà Ôn tâm đắc suốt trong đời hành đạo của Ngài, xin ghi lại nơi đây vài bài để tưởng nhớ đến Ôn và cũng để chia sẻ cùng đại chúng:

 

"Nam Kha nhất mộng đoạn,

Tây Vức cửu liên khai,

phiên thân quy Tịnh Độ,

hiệp chưởng lễ Như Lai."
Tạm dịch:

"Mộng Nam Kha đã dứt
Sanh chín phẩm liền đài
Chuyển thân về cõi Tịnh
Chấp tay lễ Như Lai".

Hay

“Nhất Bát Thiên Gia Phạn
Cô Thân Vạn Lý Du
Kỳ Vi Sanh Tử Sự
Giáo Hóa Độ Xuân Thu”.
 Tạm dịch:
“ Bát Cơm Xin Ngàn Nhà
Thân Đi Muôn Dặm Xa
Chỉ Một Việc Sinh Tử
Giáo Hóa Độ Chúng Sinh”

Hoặc:

"Phù sĩ xử thế

Phủ tại khẩu trung
Sở dĩ trảm than
Do kỳ ác ngôn",
Nghĩa là: “Phàm kẻ ở đời, lưỡi búa bén nằm sẵn trong miệng, sở dĩ chém mình là do lời nói ác

 TT Thich Nguyen Tang vieng tham HT Nhu Hue (27)

TT Thich Nguyen Tang vieng tham HT Nhu Hue (26)
Ôn Như Huệ đang xem quyển kỷ yếu “Tri Ân”, Ngài rất hoan hỷ lật xem từng trang những

hình ảnh,những bài viết, những tâm tình, những cảm niệm tri ơn của Chư Tôn Đức

và Đồng Hương Phật tử gần xa viết về Ngài, đây là một việc làm hết sức ý nghĩa

mà Giáo Hội Úc Châu đã cố gắng thực hiện trước khi Ôn viên tịch.

 

Nhất là ngày khai hạ cho khóa An Cư kỳ 12 năm 2011 tại Tu Viện Quảng Đức, Đức Trưởng Lão HT Thích Như Huệ, ngài là vừa Hội Chủ, vừa là chủ sám khai kinh hôm đó, ai ai cũng xúc động tham dự lễ khi nghe giọng khai chung bảng, cao vút và bi hùng của Ngài với bài khai Đại Cổ (trống lớn):

Pháp luân thường chuyển huệ tâm khai
Cát đoạn tử sanh, tọa bảo đài
Ngã kim xưng tán Y Vương vị
Thân tâm thanh tịnh bái Như Lai.
Nam Mô  Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

(Tạm dịch: Pháp luân thường trổi, Tuệ thường khai, Đoạn tuyệt tử sanh lên bảo đài, Con nay tán dương Y Vương vị, Thân tâm trong sạch lạy Như Lai).

(Mời nghe giọng xướng kệ bài này của Ôn Như Huệ)



 

Đặc biệt trong mùa An Cư Kiết Hạ năm 2014 tại Quảng Đức, sáng nào hầu trà, mở đầu Ngài cũng đọc bài tán rơi: “Nhất điện mộng hoàng lương” như là một dấu hiệu cảnh báo vô thường của cuộc đời mà bản thân Ngài cảm nhận được trước khi giã từ cuộc đời mộng ảo này, giọng của Ngài xướng tán rơi này với âm thanh ấm áp và cao chất ngất: “ Nhất điện mộng hoàng lương, Nhơn mạng vô thường, Thân hình bào ảnh tợ ngân sương, Mạng tợ ngân sương, Nguyện bất cửu trường, mộng đoạn hoàng lương, Nhất triêu thương hải biến, Như diệp thượng ngân sương”. (tạm dịch: Ôi giấc mộng kê vàng, Mạng người vô thường, Thân hình như bóng ảnh, bọt nước, giọt sương; Mạng như sương bạc, Hết mộng rồi, nồi kê còn đó; Một mai biển dâu biến đổi; Như trên lá đọng giọt sương).

 

Và đúng như linh cảm “Nhất điện mộng hoàng lương”, cuối cùng Ôn đã trở về với thế giới Niết bàn vô tung bất diệt, nhục thân của Ôn đã an nghỉ trong Liên Hoa bảo tháp tôn trí trong khuôn viên Pháp Hoa. Tuy thời gian có trôi qua, không gian có biến dịch, song công đức và đạo hạnh sáng ngời của Hòa Thượng vẫn còn sống mãi với thời gian vô cùng và không gian vô tận, vẫn hằng hữu trong lòng người con Phật tại Úc Châu này:

 

"Người nằm đấy cho ngàn thu vang bóng
Mảnh hình hài lồng lộng tựa hư không
Sẽ sống mãi trong lòng Thích tử
Trong suy tư cùng pháp giới vô biên".

 
Nam Mô A Di Đà Phật,
Viết tại Trường Hạ Pháp Hoa 2018

Tỳ Kheo Thích Nguyên Tạng


HT Thich Nhu Hue-1

LẠI MỘT MÙA AN CƯ VẮNG BÓNG ÔN

(Phổ thơ cảm tác từ bài viết của Tỳ Kheo Thích Nguyên Tạng.)

 

 

1 - Thu đã đến, qua ba lần thay lá

Đông lại về, mùa Kiết Hạ An Cư

Tổ Đình Pháp Hoa vắng bóng Ôn Như

Ngài viên tịch, giã từ nơi dương thế...

 

Theo Đức Phật, cuộc đời Ôn Như Huệ

Vui cảnh thiền, kinh kệ trọn đường tu

Xa quê hương mang nặng bước viễn du

Rời đất nước, khi mây mù che lối..

 

Mười tám ngày thuyền lênh đênh trôi nổi

Bờ tự do biến đổi bước hành trình

Đất Phù Tang lao động để mưu sinh

Lòng giữ mãi thân hình người con Phật..

 

Sau cơn hạn, mưa về tươi thắm đất

Rời Phù Tang người cất bước định cư

(HT) Thích Như Điển liền giới thiệu qua thư

Lời thỉnh nguyện, đến từ hàng Phật Tử.

 

Vùng Nam Úc, từ nay làm Phật Sự

Cùng cộng đồng nơi xứ lạ trời Tây

Ước mơ xưa, ấp ủ bao tháng ngày

Sẽ xây dựng nơi đây, chùa thờ Phật..

 

Ban Hộ Trì đã cùng Ngài xây cất

Ngôi Già Lam với tên đặt Pháp Hoa

Kiến trúc chùa cổ kính như là:

Tổ Đình (Chúc Thánh Hội An) khi Ngài xuất gia tu học...

 

Tháng năm dài, bao công lao khó nhọc

Chùa Pháp Hoa vươn tầm vóc thêm ra

Thiền Sư Nhất Hạnh từ chốn phương xa

Ôn thỉnh đến, chùa Pháp Hoa thuyết giảng.

 

Chốn trời Tây, một ngôi chùa hoành tráng

Thật uy nghi tỏa rạng nét Đông phương

Nhìn Pháp Hoa Ngài (TS) hoan hỷ, tỏ tường

Xin đổi lại danh xưng là Đình Tổ

"Mái chùa che chở hồn dân tộc

Nếp sống muôn đời của Tổ tông"

 

Công đức lớn, Ngài khai sơn đặt chỗ

Xây ngôi chùa để cứu độ chúng sinh

Xứng đáng tôn, phẩm vị cao Tổ Đình

Đường Phật Sự hành trình luôn tiếp bước....

 

2 - Gió đưa réo rắt bên đàng

Thu qua, Đông đến - lá vàng biệt ly

Ba năm đã trôi đi nhanh quá

Nay đến mùa Kiết Hạ An Cư

Pháp Hoa thiếu bóng Ôn Như

Người về lạc cảnh - giã từ thế gian

Hai mươi năm, nẻo đàng Phật sự

Mười sáu lần, tham dự An Cư

Ngài luôn có mặt, không từ

Khắp trên nước Úc, cho dù xa xôi.....

Mùa Kiết Hạ Ngài ngồi kể chuyện

Bên chén trà, khói quyện mùi hương

Chuyện đi hoằng pháp trên đường

Bằng xe đạp cũ, Ngài thường vác vai

Có những khi đề tài thơ pháp

Ngài đọc nghe ấm áp từng câu.

Bao mùa khai hạ mở đầu

Giọng khai chung bảng vút cao, bi hùng

Bài Đại Cổ âm rung ngân giọng

Người nghe qua xúc động vô cùng

Còn đâu âm giọng khai chung

Còn đâu kệ thán cao, hùng du dương

Tan rồi "giấc mộng hoàng lương"

Nhục thể bỏ lại - quê hương trở về

Cõi trăm năm yên bề Phật Sự

Đường Tây Phương sinh tử không còn

Ôn Như Huệ tấm lòng son

Trọn đời theo Phật... vẹn toàn thế gian.

 

3 - Mùa An Cư đạo tràng tề tựu

 

 

3 - Mùa An Cư đạo tràng tề tựu
Chùa Pháp Hoa đông đủ Tăng Ni
Kiết Hạ 19, lần này
Là ngày hiệp kỵ đàn trai - Đại Tường.
Ôn Như Huệ tấm gương ngời sáng
Trọn cuộc đời, xứng đáng noi theo
Phật Tử - Đại Đức - Tỳ Kheo
Nhớ công đức lớn, Ngài gieo buổi đầu.
Hai tay chắp cúi đầu phủ phục
Nén tâm hương nghi ngút dâng lên
Tiếng chuông nhịp mõ vang rền
Lòng thành Thích Chúng không quên ơn Ngài
Nhớ năm xưa nơi đây Ngài đã
Dụng sức mình quên cả nắng mưa,
Xây dựng lên một ngôi chùa
Giữ hồn dân tộc - truyền thừa pháp kinh....
Mùa An Cư linh đình khai mở
Chùa Pháp Hoa rực rỡ nghiêm trang
Niềm vui nô nức đạo tràng
Về đây tu tập - (năm) hai ngàn đầu tiên....
Đem tâm đức gắn liền trí tuệ
Cho hôm nay và thế hệ sau
Niềm tin Phật Giáo nhiệm mầu

Cộng đồng Việt Úc ơn sâu kính về
Nay Ngài đã không còn dương thế
Bao đức công đã để lại đây
Ngài về an lạc Phương Tây
Pháp Hoa Nam Úc - Nơi đây nhớ Ngài.

Nam Mô A Di Đà Phật
Bến Tre 11-07-2018
Quảng Pháp Ngôn

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
18/07/2010(Xem: 6445)
Kính bạch Sư Tổ! Chúng con đang tập tiếp xúc với Người qua hình ảnh một bậc thầy già chốn núi rừng Dương Xuân. Một túp liều tranh, một bà mẹ già và với ba người đệ tử. Đó là khoảng thời gian hạnh phúc nhất của Sư Tổ. Người có thời gian chăm sóc mẹ già và trao truyền những hoa trái tu học cho những người học trò yêu quý. Xuất thân từ làng Trung Kiên – một vùng đất Phật giáo ở Quảng Trị, Sư Tổ đã đến chùa Thiên Thọ (Báo Quốc) núi Hàm Long – Huế, để xuất gia học đạo với Thiền sư Phổ Tịnh, lúc đó Người chỉ mới lên bảy tuổi. Đến năm 30 tuổi, nhận thấy nơi Sư Tổ có chí khí của một bậc Xuất trần nên Sư Tổ được Bổn sư phú pháp truyền đăng với bài kệ: Nhất Định chiếu quang minh Hư không nguyệt mãn viên Tổ tổ truyền phú chúc Đạo Minh kế Tánh Thiên.
04/07/2010(Xem: 9532)
-Người đi tiên phong và nỗ lực không mệt mỏi cho sự nghiệp phát triển trí tuệ, từ bi và hòa bình- -Nhà lãnh đạo toàn cầu trong phong trào vì hòa bình, nhân quyền và sức khỏe cộng đồng-
14/06/2010(Xem: 4510)
Hòa Thượng Thích Bích Nguyên là một trong những bậc cao Tăng thạc đức của Phật giáo Lâm Đồng. Ngài họ Nguyễn, húy là Tùng, sinh năm 1898 tại làng Duy Hòa, xã Triệu Hòa, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Thuở nhỏ, bẩm chất thông minh, đĩnh ngộ. Thời tráng niên, lập nghiệp ở Lào, Hòa Thượng nhân đọc báo Từ Bi Âm mà ngộ đạo, thấy rõ cuộc đời vô thường, nuôi chí xuất gia. Đến năm 29 tuổi (1927), Hòa Thượng mới có đủ nhân duyên đầu sư thọ giáo với Hòa Thượng PHƯỚC HUỆ, Trú trì chùa Hải Đức, Huế và đắc giới Sa di năm 1934. Năm 1936, ngài thọ Cụ túc giới với pháp hiệu BÍCH NGUYÊN, rồi theo học ở các lớp Phật học tại các Phật học viện Hải Đức, Bảo Quốc và Ấn Quang.
15/05/2010(Xem: 4363)
Thiền sư Khánh Hòa sinh năm 1877 tại làng Phú Lễ tỉnh bến Tre, xuất gia năm 19 tuổi tại chùa Khải Tường. Chí nguyện chấn hưng Phật giáo của ông phát sinh vào khoảng năm ông được bốn mươi tuổi. Ông du hành khắp các tổ đình và Nam Kỳ để gây ý thức chấn hưng và kêu gọi sự hợp tác của các bậc tôn túc.
19/03/2010(Xem: 6371)
Một cặp kính trắng với sợi dây vòng ra sau cổ, năm ba con khỉ nhảy tung tăng trên vai, trên đầu, tóc tai rối rắm, áo quần cái dài, cái ngắn, kiểu đàn ông, đàn bà, đầy màu sắc sặc sỡ …đây là dáng người anh Bùi Giáng chúng ta thường gặp trên những nẽo đường Sài Gòn năm 1975 … Sau năm 1975 , anh Bùi Giáng về ở chung với chúng tôi trong nội xá viện Đại học Vạn Hạnh cũ (222 Trương Minh Giảng, nay là Lê Văn Sĩ). Vào thời điểm này, Đại học Vạn Hạnh không còn hoạt động, nên nội xá chỉ còn một số ít người ở lại với Hòa thượng Viện trưởng Thích Minh Châu. Chúng tôi quản lý chung, chú Chơn Thuần đi chợ và thị giả cho Hòa thượng Viện trưởng, anh Trần Châu phụ trách an ninh, anh Bùi Giáng thì nhận nhiệm vụ đi mua lương thực.
10/03/2010(Xem: 5193)
Bản thân tôi (Tín Nghĩa), rất ít có dịp thân cận với Ôn Già Lam. Điều dễ hiểu, vì tôi không xuất thân từ Phật Học Viện. Vả lại, mỗi lần Ôn về Huế (Bảo Quốc), thường vào dịp đầu xuân, thì đa phần Ôn hay đàm luận Phật sự với quý Ôn lớn như Ôn Linh Mụ, Ôn Trúc Lâm, Ôn Linh Quang, Ôn Từ Đàm và Ôn Bảo Quốc, . . . Đầu năm, Ôn thường hay nghe Đại luật (tức là dạy luật Tứ phần) cho hai chúng Tỳ kheo và Tỳ kheo ni, thì tôi đạp xe ra học rồi về lại chùa. Vả lại, bổn phận của tôi ở chúng Trúc Lâm cũng tương đối bề bộn. Tuy thế, chính tôi lại có với Ôn ba kỷ niệm khó quên.
10/03/2010(Xem: 7671)
Bây giờ là những ngày cuối năm âm lịch. Thiên hạ cùng viết về Xuân, Tết. Tôi muốn viết về Ôn Già Lam và Tu viện Quảng Hương Già Lam. Ôn Già Lam là cách gọi tôn kính của những môn đệ và phật-tử hướng về Đại lão Hòa thượng Thích Trí Thủ, vị viện chủ sáng lập tu viện. Trong tu viện, tăng chúng khi nói về ngài thì chỉ dùng chữ “Ôn” một cách gần gũi. Còn tu viện Quảng Hương Già Lam thì vẫn thường được gọi với cái tên thật ngắn: chùa Già Lam.
10/03/2010(Xem: 6071)
Ôn Già Lam, chỉ ba tiếng ấy thôi cũng đủ làm ấm lòng bao lớp Tăng sinh của các Phật Học Viện: Báo Quốc - Huế, Phổ Đà - Đà Nẵng, Hải Đức - Nha Trang, Già Lam - Sài Gòn. Ba tiếng nói ấy như trái tim của Mẹ ấp ủ đàn con qua suốt quãng đời dãi dầu mưa nắng. Ôn Già Lam, người đã hy sinh suốt đời mình để phụng sự cho Phật pháp, đào tạo Tăng tài qua nhiều thế hệ. Ôn đã khai phóng tinh thần thế học cho Tăng sinh các Phật Học Viện.
10/03/2010(Xem: 12795)
Sau năm 75 các Phật Học Viện đều đóng cửa. Các tăng sinh tại các Phật Học Viện đều trở về chùa cũ của Thầy Tổ để sinh sống và tu học. Thật tế, tu thì có mà học thì hầu như không. Có chăng là Thầy dạy đệ tử trong chùa. Những chùa có ruộng đất thì thầy trò tự túc canh tác để sinh sống. Sinh hoạt giáo dục và đào tạo tăng ni trẻ đã không còn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567