Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tiểu Sử HT Thích Trung Hậu

09/06/201812:54(Xem: 5056)
Tiểu Sử HT Thích Trung Hậu

ht thich trung hau

HÒA THƯỢNG THÍCH TRUNG HẬU 
(1945 - 2018) 

- Ủy viên Thường trực Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam
- Trưởng ban Văn hóa Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam
- Tổng Biên tập Tạp chí 
Văn Hóa Phật Giáo
- Trụ trì chùa Linh Thái, xã Xuân Thới Đông, huyện Hóc Môn, TP.Hồ Chí Minh

A.   THÂN THẾ

Hòa thượng họ Hồ, húy Văn Chiến, sinh ngày 25 tháng 8 năm 1945 tại làng Mỹ Á, xã Vinh Hải, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế, trong một gia đình miền quê duyên hải chất phác, tin Phật thuần thành.

Thân phụ là cụ ông Hồ Hoài, pháp danh Nguyên Thông - một vị Khuôn trưởng Khuôn hội Phật giáo Mỹ Á, chánh tín Tam bảo. Thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Con, pháp danh Nguyên Mỹ, hiện tròn 100 tuổi và đang hưởng đại thọ cùng con cháu tại quê nhà. Song thân sinh hạ được 8 người con, 7 trai một gái, Hòa thượng là con trưởng trong gia đình.

Lúc ấu thơ, Hòa thượng theo học tại trường làng, sau đó, với thiện duyên, Hòa thượng đã được lưu trú tại chùa Từ Đàm để theo học các trường lớp ở Cố đô. Qua sự hướng dẫn của một vị là đàn anh cùng quê - lúc bấy giờ đang theo lớp dự bị xuất gia tại chùa Từ Đàm, hoặc đã trở thành giảng sư, Hòa thượng đã được gặp gỡ, thân cận các bậc xuất gia. Với tính hiếu học và Bồ-đề tâm sẵn có, Hòa thượng đã được chư tôn thiền đức thương mến dạy dỗ, nhất là Trưởng lão Hòa thượng Thích Trí Quang.


B. THỜI KỲ XUẤT GIA HỌC ĐẠO

Năm 1957, đủ nhân duyên, Hòa thượng phát tâm mạnh mẽ mong muốn được thế phát dự vào hàng Thích tử. Sau khi xin phép song thân, được sự đồng thuận, Hòa thượng bày tỏ tâm nguyện khẩn cầu lên chư tôn thiền đức tại chùa Từ Đàm và được Trưởng lão Hòa thượng Thích Trí Quang thâu nhận làm đệ tử, được Trưởng lão Hòa thượng ban pháp danh là Lệ Như, pháp tự Trung Hậu.

Sau khi xuất gia, Hòa thượng được Trưởng lão Hòa thượng Bổn sư cho tiếp tục việc học ngoại điển, đồng thời sớm hôm cần mẫn với chương trình công phu tu tập thiền môn nghiêm khắc ở Cố đô. Hòa thượng đặc biệt có hạnh thờ thầy rất chu đáo. Trong Pháp nạn của Phật giáo Việt Nam 1963 và những năm sau đó, Hòa thượng thường được Hòa thượng Bổn sư cho theo làm thị giả, lòng chưa một phút giây xao lãng trong việc học đạo, thờ Thầy.

Năm 1968, Hòa thượng được Trưởng lão Hòa thượng Bổn sư cho phép đặc cách thọ Tam đàn Cụ túc tại Đại giới đàn Phật Học viện Trung phần Hải Đức Nha Trang, tổ chức vào ngày 17, 18, 19 tháng 6 năm Mậu Thân (12,13, 14-7-1968), do Đại lão Hòa thượng Thích Phúc Hộ làm Đường đầu Hòa thượng, Trưởng lão Hòa thượng Giám viện Thích Trí Thủ làm Chánh chủ đàn.

Sau khi thọ Cụ túc giới, Hòa thượng được Hòa thượng Bổn sư gửi vào Quảng Hương Già Lam - Sài Gòn theo học Phân khoa Phật học tại Đại học Vạn Hạnh và tốt nghiệp Cử nhân Phật học vào năm 1972.


C. THỜI KỲ HÀNH ĐẠO, HOẠT ĐỘNG PHẬT SỰ

Sau năm 1975, khi đất nước hòa bình thống nhất, Hòa thượng cùng chư tôn đức theo Trưởng lão Hòa thượng Thích Minh Châu chuyển về trú xứ thiền viện Vạn Hạnh (750 Nguyễn Kiệm, quận Phú Nhuận ngày nay). Hòa thượng từng đảm trách tri sự của thiền viện Vạn Hạnh một thời gian, và thường trú tại đây cho đến ngày viên tịch.

Năm 1997, Học viện Phật giáo Việt Nam tại Huế được thành lập do Trưởng lão Hòa thượng Thích Thiện Siêu làm Viện trưởng, cùng với chư tôn đức Tăng Ni, chư vị cư sĩ trí thức tại Thuận Hóa, các tỉnh thành trong nước và hải ngoại, Hòa thượng đã tích cực hộ trì, tham gia công tác giảng dạy, đảm trách Phó Viện trưởng Học viện giai đoạn đầu, trong bối cảnh còn nhiều khó khăn về nhân sự.

Hòa thượng là hàng Giáo phẩm tham gia hoạt động văn hóa, báo chí rất sớm cùng với cố Cư sĩ Võ Đình Cường, đảm nhiệm Phó Trưởng ban Thường trực Ban Văn hóa Trung ương GHPGVN (1984), Phó Trưởng ban Báo chí và In ấn Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam (2003), Phó Tổng Biên tập Tạp chí Văn Hóa Phật Giáo (2004), Tổng Biên tập Tạp chí Văn Hóa Phật Giáo (tháng 4-2017 cho đến ngày viên tịch); Ủy viên Thường trực Hội đồng Trị sự, Trưởng ban Văn hóa Trung ương GHPGVN liên tục 3 nhiệm kỳ VI, VII và VIII.

Năm 1997, Hòa thượng khai sơn chùa Linh Thái, tọa lạc xã Xuân Thới Đông, huyện Hóc Môn, TP. Hồ Chí Minh. Sau đó, Giáo hội công nhận cơ sở này là giáo sản thuộc hệ thống tự viện của Giáo hội Phật giáo Việt Nam và bổ nhiệm Hòa thượng làm trụ trì vào năm 2010. Nơi đây, Hòa thượng đã tiếp Tăng độ chúng hơn 10 vị xuất gia, chứng minh thành lập Gia đình Phật tử Linh Thái, tổ chức các sinh hoạt trí thức, truyền Tam quy Ngũ giới cho nhiều tín đồ quy hướng Tam bảo cũng như các hoạt động văn hóa, tâm linh vào các dịp lễ trọng của Phật giáo. 

Với tâm lượng bao dung và hạnh cần mẫn, cho đến hôm nay chùa Linh Thái mà Hòa thượng dày công gầy dựng đã trở thành ngôi phạm vũ trang nghiêm, không chỉ là điểm sinh hoạt tín ngưỡng, quy hướng tâm linh cho cư dân quanh vùng đến học Phật sớm hôm, mà còn là nơi lưu giữ đạo tình của bao pháp lữ, huynh đệ và hàng đệ tử tứ chúng hướng về.

Trân trọng những đóng góp của Hòa thượng, Hội đồng Trị sự GHPGVN đã tặng nhiều Bằng Tuyên dương Công đức; Chủ tịch nước tặng Huân chương Đại Đoàn kết dân tộc; Thủ tướng Chính phủ tặng Bằng khen và nhiều phần thưởng cao quý khác.


D. CÔNG TRÌNH SƯU TẬP, BIÊN SOẠN

Hòa thượng là người luôn có ý thức yêu thích những giá trị trí tuệ, văn hóa, đặc biệt là văn hóa dân tộc đậm đà tinh thần Phật giáo cũng như gương sáng chư vị Bồ-tát, Thánh Tăng, chư tôn thiền đức, cư sĩ hữu công đối với Phật giáo qua các thời kỳ.

Mặc dù bận rộn với nhiều Phật sự, nhưng Hòa thượng vẫn sớm hôm cần mẫn hầu Thầy là Trưởng lão Hòa thượng Thích Trí Quang, nhất là trong việc đảm trách in ấn các công trình dịch thuật, nghiên cứu, trước tác của Trưởng lão Hòa thượng Bổn sư một cách tận tụy. 

Bên cạnh đó, Hòa thượng vẫn miệt mài dành nhiều thời gian để sưu tầm, biên soạn các công trình về văn hóa, lịch sử Phật giáo, và cho đến nay đã có hơn 30 đầu sách được xuất bản. 

Những năm tháng cuối đời, dù thân tứ đại khiếm an, chí nguyện phụng sự văn hóa Phật giáo của Hòa thượng vẫn không hề xao lãng, kể cả những tháng ngày điều trị ở bệnh viện, các tập bản thảo tâm huyết một đời của Hòa thượng vẫn không rời tay.

Tính đến nay, Hòa thượng đã hoàn thành và xuất bản các tác phẩm sau:

1. Ca dao tục ngữ Phật giáo Việt Nam (2006, tái bản 2007)

2. Những truyện cổ tích Việt Nam mang màu sắc Phật giáo (2008)

3. Sự tích Quan Âm trong văn học dân gian Việt Nam (2009)

4. Sự tích A-la-hán (2010)

5. Sự tích Địa Tạng Đại sĩ (2011)

6. Hạnh đức của Bồ-tát Phổ Hiền (2012)

7. Bồ-tát Di-lặc - Đức Phật đương lai (2013)

8. Bồ-tát Đại Trí Văn Thù (2014)

9. Tôn giả Xá-lợi-phất (2015)

10. Tôn giả Đại Mục-kiền-liên (2016)

11. Tôn giả Đại hiếu Mục-kiền-liên (2016)

12. Tôn giả Ananda (2016)

13. Trưởng giả Cấp Cô Độc (2016)

14. Nữ Đại thí chủ Tỳ-xá-khư  (2016)

15. Tôn giả Agulimala (2017)

16. Tôn giả Maha Kassapa (2017)

17. Thánh nữ Tỳ-kheo-ni Mahapajapati Gotami (Di mẫu Kiều-đàm-di, 2017)

18. Tôn giả Devadatta (Đề-bà-đạt-đa, 2017)

19. Thánh nữ Tỳ-kheo Ni Uppalavanna (Liên Hoa Sắc, 2018)

20. Tôn giả Rahula (La-hầu-la, 2018)

21. Tôn giả Anuruddha (A-na-luật, 2018)

22. Thánh nữ Tỳ-kheo Ni Khema (2018)

23. Tôn giả Maha Kaccana (Đại Ca-chiên-diên, 2018)

24. Tác phẩm của bác sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám (6 tập, đồng thực hiện; tập 1, 2 và 3 (2007), tập 4, 5 và 6 (2008)

25. Đức Phật Thích-ca đã xuất hiện như thế (2009)

26. Chư tôn thiền đức Phật giáo Thuận Hóa (đồng soạn giả, 2010)

27. Chư tôn thiền đức và cư sĩ Phật giáo Thuận Hóa, tập 1, 2 (đồng soạn giả, 2011)

28. Chư tôn thiền đức và cư sĩ Phật giáo Thuận Hóa, tập 3 (đồng soạn giả, 2016)

29. Trưởng lão Hòa thượng Thích Thiện Siêu di cảo (đồng soạn giả, 2017)

30. Đã thực hiện bản thảo chuẩn bị xuất bản: Chư tôn thiền đức và cư sĩ Phật giáo Thuận Hóa, tập 4 và một số Công hạnh chư Đại Bồ-tát, Thánh Tăng, chư tôn thiền đức Tăng Ni, cư sĩ có nhiều đóng góp cho Phật giáo thời hiện đại.


E. NHỮNG NGÀY THÁNG CUỐI CÙNG

Khi được các bác sĩ cho biết về tình trạng sức khỏe có dấu hiệu không được tốt, phải nhập viện điều trị, nhưng Hòa thượng vẫn tiếp tục cùng các pháp lữ và cộng sự làm việc không biết mệt mỏi, vượt lên những chướng duyên thân bệnh.

Đặc biệt Hòa thượng vẫn tâm niệm tận tụy hầu Thầy, ưu tư về những việc sẽ làm trong tấm lòng của một người học trò đối với Bậc Ân sư nhờ đó mà một đời nên huệ mạng.

Là người con hiếu thảo, Hòa thượng cũng thường lo nghĩ đến mẫu thân đã ngoài 100 tuổi, cũng như các pháp lữ cả một đời gắn bó thân thiết trong tình Linh sơn cốt nhục sâu sắc.

Điều đáng quý là lúc nào bên cạnh Hòa thượng cũng có những cuốn sách cần đọc, và vẫn thường xuyên đọc, trao đổi về những điều hay lẽ đẹp, tha thiết với mục tiêu lấy trí tuệ làm sự nghiệp.

Cuộc đời của Hòa thượng nổi bật với tính cách gần gũi, giản dị, khiêm cung, nhiệt tâm trong mọi Phật sự; tôn trọng bậc trưởng thượng, thân thiện và kiên nhẫn với hàng hậu học, với các cộng sự và Phật tử, trân trọng giới trí thức, để lại nhiều ấn tượng tốt đẹp cho người hữu duyên gặp gỡ, tiếp xúc.

Duyên đã mãn, Hòa thượng an nhiên xả báo thân, viên tịch vào lúc 12 giờ 15 phút ngày 21 tháng 4 năm Mậu Tuất, nhằm ngày 4 tháng 6 năm 2018, Phật lịch 2562, tại chùa Linh Thái, nơi Hòa thượng khai sơn và trụ trì, trong đạo tình và sự hộ niệm của các pháp lữ, tứ chúng đệ tử, trụ thế 74 năm, 50 Hạ lạp.

Nam mô Đạo Mân Pháp phái Đệ thập nhị thế hệ Việt Nam Phật giáo Giáo hội Hội đồng Trị sự Thường trực Ủy viên, Trung ương Văn hóa Ban Trưởng ban, khai sơn Linh Thái tự trú trì, húy thượng Lệ hạ Như, tự Trung Hậu, hiệu Phổ Thọ Hòa thượng Giác linh thùy từ chứng giám.

Môn đồ pháp quyến phụng soạn

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/06/2011(Xem: 6018)
Trận chiến thắng Bạch Đằng của Ngô Vương Quyền năm 939 là một dấu mốc quan trọng trong lịch sử dựng nước của Việt Nam. Ngọn sóng Bạch Đằng Giang đã cuốn trôi đi nỗi đau nhục của người dân nô lệ, nhận chìm tham vọng của nòi Hán áp đặt lên đất nước ta trong suốt một ngàn năm. Từ đây Việt Nam không còn là một huyện lỵ của người Hán, từ đây một quốc gia đúng nghĩa đã xuất hiện dưới vòm trời Đông Á.
24/06/2011(Xem: 8401)
Ngài họ Nguyễn húy là Hữu Kê, dòng họ của Đại thần Nguyễn Trãi. Nguyên quán thuộc Tông sơn Gia miêu Ngoại trang, tỉnh Thanh Hóa. Ngài thọ sanh năm Nhâm Tý (1912), tại làng Nguyệt Biều, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên. Vốn thọ sanh trong gia đình vọng tộc, quý phái, thích lý luận Nguyễn Hữu Độ.
24/06/2011(Xem: 5451)
Ngài Mật Thể, pháp danh Tâm Nhất, pháp tự Mật Thể, tên thật là Nguyễn Hữu Kê, sinh năm 1912 ở làng Nguyệt Biều, quận Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên. Chánh quán huyện Tống Sơn, Gia Miêu ngoại trang, tỉnh Thanh Hóa, thuộc dòng Thích Lý của Cụ Nguyễn Hữu Độ. Gia đình Ngài qui hướng đạo Phật, cụ thân sinh và người anh ruột đều xuất gia.
23/06/2011(Xem: 5926)
Đọc Thánh Đăng Ngữ Lục, do Sa môn Tánh Quảng, Thích Điều Điều đề tựa trùng khắc, tái bản năm 1750, ta thấy đời Trần có năm nhà vua ngoài việc chăn dân, họ còn học Phật, tu tập và đạt được yếu chỉ của thiền, như vua Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông và Trần Minh Tông. Và sự chứng ngộ của các Thiền sư đời Trần thì không thấy đề cập ở sách ấy, hoặc có đề cập ở những tư liệu khác mà hiện nay ta chưa phát hiện được, hoặc phát hiện thì cũng phải tra cứu và luận chứng dài dòng rồi mới kết đoán ra được.
23/06/2011(Xem: 6889)
Đọc sử Phật giáo Việt Nam, hẳn chúng ta đều biết nước mình có một ông vua đi tu ngộ đạo, đó là vua Trần Nhân Tông. Ngài làm vua trong thời gian nước nhà đang bị quân Mông Cổ đem đại quân sang xâm lấn nước ta lần thứ ba.
22/06/2011(Xem: 7611)
Trong sáu thập niên qua, TIME đã không ngừng ghi chép lại những vinh quang cùng khổ nhọc của Á châu. Trong số đặc biệt kỷ niệm thường niên hôm nay, chúng tôi muốn bày tỏ lòng kính trọng của mình đến những nhân vật nổi bật đã góp phần vào việc hình thành nên thời đại chúng ta. Những thập niên xáo động nhất của một lục địa đông dân nhất trên trái đất này đã sản sinh ra hàng loạt những nhân vật kiệt xuất. Trong sáu mươi năm qua, kể từ khi TIME bắt đầu cho xuất bản ấn bản Á Châu, chúng tôi đã có cái đặc ân là được gặp gỡ đa số những nhân vật ngoại hạng này –theo dấu cuộc vận động hay trên chiến trường, trong phòng hội hay trong phòng thí nghiệm, tại cơ sở sản xuất hay tại phim trường.
16/06/2011(Xem: 5155)
Tôi có duyên lành gặp được ngài một lần khi ngài đến thăm Hòa thượng chùa Đông Hưng, bổn sư của tôi, cũng là y chỉ sư của Hòa thượng Quảng Thạc, một để tử xuất gia của ngài khi còn ở đất Bắc. Cung cách khiêm cung, ngài cùng Hòa thượng tôi đàm đạo về quá trình tu tập cũng như Phật học, hai ngài đã rất tâm đắc về chí nguyện giải thoát và cùng nhau kết luận một câu nói để đời : “Mục đích tu hành không phải để làm chính trị”. Cũng câu nói này, khi chia tay chư tăng miền Nam, ngài đã phát biểu với hàng pháp lữ Tăng ni đưa tiễn. Khi sưu tập tư liệu về cuộc đời của ngài, tôi may mắn gặp được các bậc tri thức cao đồ của ngài kể lại. Nay, nhân có cuộc hội thảo về phong trào chấn hưng Phật giáo miền Bắc và công hạnh của ngài, tôi xin được góp thêm đôi điều.
14/06/2011(Xem: 6583)
Thiền sư PHÁP THUẬN (Bính Tý 918): Thiền sư đời Tiền Lê, thuộc dòng thiền Tỳ-Ni-Đa-Lưu Chi, không rõ gốc gác quê quán và tên thật, chỉ biết rằng Sư họ Đỗ, xuất gia từ thuở nhỏ ở chùa Cổ Sơn (Thanh Hóa), sau theo học đạo Thiền sư Phù Trì ở chùa Long Thọ, nổi tiếng là uyên thâm đức độ. Tương truyền rằng chính Sư đã dùng nghệ thuật phù sấm, làm cố vấn giúp vua Lê Đại Hành nắm quyền bính, dẹp yên được hỗn loạn trong triều cuối đời nhà Đinh, được vua Lê vô cùng trọng vọng. Năm 990 niên hiệu Hưng Thống thứ 2, Sư không bệnh mà viên tịch, thọ 76 tuổi, để lại cho đời các tác phẩm: “Bồ Tát sám hối văn”, “Thơ tiếp Lý Giác”, và một bài kệ.
14/06/2011(Xem: 6544)
• Thiền sư Chân Không(Bính Tuất -1046): Sư họVương, thế danh Hải Thiềm, quê quán ở làng Phù Đổng (nay là Tiên Sơn-Bắc Ninh), xuất thân trong một gia đình quý tộc. Lúc thân mẫu của ông mang thai, cha ông nằm mộng thấy một vị tăng Ấn Độ trao cho cây tích trượng, sau đó thì ông ra đời. Mồ côi cha mẹ từ thuở niên thiếu, ông siêng chăm đọc sách không màng đến những chuyện vui chơi. Năm 20 tuổi ông xuất gia, rồi đi ngao du khắp nơi để tìm nơi tu học Phật Pháp. Nhân duyên đưa đẩy cho Sư đến chùa Tĩnh Lự ở núi Đông Cứu (Gia Lương-Hà Bắc), nghe Thiền sư Thảo Nhất giảng kinh Pháp Hoa mà ngộ đạo, được nhận làm đệ tử, sớm tối tham cứu thiền học, và được sư thầy truyền tâm ấn, thuộc dòng thiền Tì-ni-đa Lưu -chi, thế hệ thứ 16. Sau, Sư lên núi Phả Lại, trại Phù Lan (nay thuộc huyện Mỹ Văn-Hưng Yên) làm trụ trì chùa Chúc Thánh, ở suốt 20 năm không xuống núi để chuyên trì giới luật, tiếng thơm đồn xa đến cả tai vua.
13/06/2011(Xem: 14496)
Ôi, trong giáo pháp Phật đà của ta, việc trọng đại nhất là gì ? Con người sinh ra không từ cửa tử mà đến, chết không vào cửa tử mà đi. Thế nên người nằm non ở tổ, bỏ ngủ quên ăn, chẳng tiếc thân mạng, đều vì việc lớn sinh tử. Ở thời giáo suy pháp mạt này mà có người vì việc lớn sinh tử như Hòa thượng Liễu Quán, thật là hy hữu.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]