Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hoài Niệm về GS Trần Quang Thuận

15/01/201818:53(Xem: 7825)
Hoài Niệm về GS Trần Quang Thuận

Tran Quang Thuan 2

HOÀI NIỆM
CỐ GIÁO SƯ TÂM ĐỨC TRẦN QUANG THUẬN

Nam mô A Di Đà Phật,
Kính bạch chư Tôn Đức,
Kính thưa liệt Quý Vị,

Chúng ta vừa nghe qua phần tiểu sử của bác Trần Quang Thuận, với những đóng góp cho Đạo pháp, Dân tộc trải dài hơn 60 năm, từ quê nhà ra đến nước ngoài, ai mà không cảm thấy quý mến, kính trọng. Vì vậy, mà chúng ta sẽ không sợ lầm khi nói rằng Bác là một con người đầy đạo tâm, khí khái, và chúng ta cũng sẽ không sợ sai khi giới thiệu ở bất cứ nơi nào, với cộng đồng Phật tử hay các Tôn giáo bạn, trong những sinh hoạt văn hoá, giáo dục hay tôn giáo, giáo sư Trần Quang Thuận là một nhân sĩ trí thức Phật giáo, đúng nghĩa với lòng trân trọng và không thiếu sự thân thương.

Với tôi, hơn 30 năm qua, có được cơ hội làm việc, gần gũi, trong các sinh hoạt của Tổng hội, rồi của Giáo hội và của tổ chức GĐPT, tôi thật sự cảm mến và kính trọng con người của Bác, vừa bình dị vừa sâu sắc, đáng quý mến. Vừa rồi, nghe tin Bác mất ở miền nam Cali ở tuổi 88, tôi tìm đọc lại một số tài liệu, thì tìm thấy một bài chính Bác viết để đăng trong tập Kỷ yếu Tưởng Niệm cố Hoà thượng Thích Minh Châu, tựa đề, “Không có gì là có Tất cả”, mới biết năm 1952, bác và Ôn Minh Châu đã được Tổng Hội cử đi du học nước ngoài. Đó là năm tôi vừa sinh ra. Vì vậy, đôi lời hoài niệm sau đây chỉ là lời nói của một người hậu học xin được chắp tay bày tỏ với một bậc nhân sĩ, trưởng thượng trong ngôi nhà Đạo.

Bác Trần Quang Thuận thật sự kiên tâm, thích thú với công việc của mình. Sau khi về nước, gặp vận hội vận động cho tự do tín ngưỡng và hoà bình năm 1963, Bác đã tích cực tham gia. Rồi phải từ giả Viện Đại học Vạn Hạnh để tham chính lần nữa. Mặc dầu bao nhiêu lần tù tội, khó khăn, Bác vẫn chẳng nản chí, chồn chân kể cả 5 năm trong Thượng viện, với chức vụ Chủ tịch Uỷ ban Ngoại giao cho đến biến cố 30-4-1975.

Rồi ra nước ngoài tỵ nạn, Bác Trần Quang Thuận cũng tiếp tục con đường phụng sự Tam bảo, mong tìm một hướng đi cho Phật giáo Việt nam có thể hoà nhập vào xã hội Tây phương và nuôi dưỡng Tuổi trẻ sống theo đạo Từ bi, trở thành những Phật tử chơn chánh. Cả cuộc đời của Bác là tấm gương sáng trong hạnh nguyện của bồ tát Phổ Hiền, phụng sự không ngừng, cùng lúc, không xao lãng việc tu tập Chánh pháp, để từ đó, tư cách của Bác cũng được thể hiện trọn vẹn qua lời điếu văn do anh Nguyên Thọ Trần Kiêm Đoàn soạn mà chúng ta vừa nghe:

Nhìn lên tôn đức tâm thanh tịnh
Ngó đến đàn em ý rạng ngời

Sau hết, mới đây, đúng ba tháng, vào một ngày cuối tháng 9 năm 2017, Bác bất ngờ đến thăm khoá Hội thảo Huynh trưởng GĐPT ở Trung tâm tu học và huấn luyện Thích Quảng Đức tại thành phố San Bernadino. Thấy Bác bước vào, Điều hợp viên yêu cầu các Huynh trưởng ngưng phần thảo luận, đứng dậy để chào đón Bác. Sau đó, Bác được mời phát biểu và có lời thăm viếng đến với mọi người. Cử chỉ điềm đạm, lời nói nhẹ nhàng, ngắn mà rõ, với từng chi tiết có thể tạo nên sự chú ý của mọi người ngay từ phút đầu.

Bác kể lại những kỷ niệm khi đi dự Đại hội ở Colombo, Tích lan, hay ở Nhật bản, Ấn độ như là những bài học lịch sử sống động, những tình cảm thắm thiết của thế hệ cha anh trong hạnh Lục hoà, trên con đường Xây dựng ngôi nhà Lam vừa mới được hình thành ở quê hương. Người trẻ ngồi nghe mà thán phục, mà thương mến vô cùng. Sau đó, trong bữa cơm trưa, được hầu chuyện với Bác, thấy Bác vẫn còn khoẻ, tôi cứ tưởng còn cơ hội gần gũi, học hỏi thêm nơi con người đầy kiến thức mà cũng không thiếu sự khiêm cung của Bác. Nào ngờ…

Tôi thường mơ ước, bên cạnh những buổi lễ Truy điệu hay Tưởng niệm đầy khói trầm hương nghi ngút, với tiếng kinh trầm bỗng thiết tha để nhớ ơn người ra đi, mong chúng ta có đủ thiện duyên để tổ chức một buổi thiền trà, toạ đàm cho những người ở lại, mà qua đó,  chúng ta có thể ngồi lại bên nhau trong tình Đạo mến thương, rồi hát cho nhau nghe, cho cả chơn linh của bác Trần Quang Thuận nữa, những bài hát về tình Lam thắm thiết. Hay kể cho nhau nghe những câu chuyện, tưởng như chỉ xảy ra trong dã sử, huyền thoại, về những hy sinh, những lần tranh đấu cho lý tưởng tự do tôn giáo, hay hoà bình cho xã hội của những bậc đàn Anh, đàn Chị. Để làm gì? Xin trả lời: để cho thế hệ kế thừa của tuổi trẻ Phật giáo thấy rằng, chúng ta vẫn còn có những Tấm Lòng, những cố gắng Phi Thường rất nhẹ nhàng, bền bĩ nhưng không thiếu quyết tâm, can đảm trong tinh thần Bi Trí Dũng nhằm phụng sự Tam bảo, làm Đẹp cho cuộc đời.

Thế hệ của tôi lớn lên trong chiến tranh, thường có những thao thức, mong ước, và muốn nhìn lên các bậc thức giả đi trước để tìm những tấm gương sáng mà noi theo. Vì vậy, tôi có thể nói rằng: bên võ, có cựu Trung tướng Hoàng Xuân Lãm, nguyên Tư lệnh Quân Đoàn I và Quân Khu I, thì bên văn, có cố giáo sư tiến sĩ Trần Quang Thuận, là những khuôn mặt, qua nhiều năm, đã để lại trong lòng tôi những nét hào hùng, khí khái, những chất liệu của trung tín, bao dung đầy giá trị nhân bản của đạo Phật. Cùng những mến thương, trân trọng chất ngất, đầy nước mắt và chạnh lòng, khi phải nói những lời chia tay, vĩnh biệt với quý Bác!

Nguyện cầu chơn linh cố Giáo sư Tiến sĩ Trần Quang Thuận pháp danh Tâm Đức, một thành viên cao cấp của Giáo hội, một Huynh trưởng kỳ cựu của tổ chức Gia đình Phật tử Việt nam sớm vãng sanh Tịnh độ. Cầu nguyện Gia đình được bình an, và tất cả chúng ta đều được an lành, vững tiến trên con đường Đạo.

Nam mô Công đức Lâm Bồ tát Ma ha tát./

Thích Từ Lực
 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/06/2011(Xem: 8315)
Ngài họ Nguyễn húy là Hữu Kê, dòng họ của Đại thần Nguyễn Trãi. Nguyên quán thuộc Tông sơn Gia miêu Ngoại trang, tỉnh Thanh Hóa. Ngài thọ sanh năm Nhâm Tý (1912), tại làng Nguyệt Biều, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên. Vốn thọ sanh trong gia đình vọng tộc, quý phái, thích lý luận Nguyễn Hữu Độ.
24/06/2011(Xem: 5367)
Ngài Mật Thể, pháp danh Tâm Nhất, pháp tự Mật Thể, tên thật là Nguyễn Hữu Kê, sinh năm 1912 ở làng Nguyệt Biều, quận Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên. Chánh quán huyện Tống Sơn, Gia Miêu ngoại trang, tỉnh Thanh Hóa, thuộc dòng Thích Lý của Cụ Nguyễn Hữu Độ. Gia đình Ngài qui hướng đạo Phật, cụ thân sinh và người anh ruột đều xuất gia.
23/06/2011(Xem: 5833)
Đọc Thánh Đăng Ngữ Lục, do Sa môn Tánh Quảng, Thích Điều Điều đề tựa trùng khắc, tái bản năm 1750, ta thấy đời Trần có năm nhà vua ngoài việc chăn dân, họ còn học Phật, tu tập và đạt được yếu chỉ của thiền, như vua Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông và Trần Minh Tông. Và sự chứng ngộ của các Thiền sư đời Trần thì không thấy đề cập ở sách ấy, hoặc có đề cập ở những tư liệu khác mà hiện nay ta chưa phát hiện được, hoặc phát hiện thì cũng phải tra cứu và luận chứng dài dòng rồi mới kết đoán ra được.
23/06/2011(Xem: 6806)
Đọc sử Phật giáo Việt Nam, hẳn chúng ta đều biết nước mình có một ông vua đi tu ngộ đạo, đó là vua Trần Nhân Tông. Ngài làm vua trong thời gian nước nhà đang bị quân Mông Cổ đem đại quân sang xâm lấn nước ta lần thứ ba.
22/06/2011(Xem: 7473)
Trong sáu thập niên qua, TIME đã không ngừng ghi chép lại những vinh quang cùng khổ nhọc của Á châu. Trong số đặc biệt kỷ niệm thường niên hôm nay, chúng tôi muốn bày tỏ lòng kính trọng của mình đến những nhân vật nổi bật đã góp phần vào việc hình thành nên thời đại chúng ta. Những thập niên xáo động nhất của một lục địa đông dân nhất trên trái đất này đã sản sinh ra hàng loạt những nhân vật kiệt xuất. Trong sáu mươi năm qua, kể từ khi TIME bắt đầu cho xuất bản ấn bản Á Châu, chúng tôi đã có cái đặc ân là được gặp gỡ đa số những nhân vật ngoại hạng này –theo dấu cuộc vận động hay trên chiến trường, trong phòng hội hay trong phòng thí nghiệm, tại cơ sở sản xuất hay tại phim trường.
16/06/2011(Xem: 5043)
Tôi có duyên lành gặp được ngài một lần khi ngài đến thăm Hòa thượng chùa Đông Hưng, bổn sư của tôi, cũng là y chỉ sư của Hòa thượng Quảng Thạc, một để tử xuất gia của ngài khi còn ở đất Bắc. Cung cách khiêm cung, ngài cùng Hòa thượng tôi đàm đạo về quá trình tu tập cũng như Phật học, hai ngài đã rất tâm đắc về chí nguyện giải thoát và cùng nhau kết luận một câu nói để đời : “Mục đích tu hành không phải để làm chính trị”. Cũng câu nói này, khi chia tay chư tăng miền Nam, ngài đã phát biểu với hàng pháp lữ Tăng ni đưa tiễn. Khi sưu tập tư liệu về cuộc đời của ngài, tôi may mắn gặp được các bậc tri thức cao đồ của ngài kể lại. Nay, nhân có cuộc hội thảo về phong trào chấn hưng Phật giáo miền Bắc và công hạnh của ngài, tôi xin được góp thêm đôi điều.
14/06/2011(Xem: 6475)
Thiền sư PHÁP THUẬN (Bính Tý 918): Thiền sư đời Tiền Lê, thuộc dòng thiền Tỳ-Ni-Đa-Lưu Chi, không rõ gốc gác quê quán và tên thật, chỉ biết rằng Sư họ Đỗ, xuất gia từ thuở nhỏ ở chùa Cổ Sơn (Thanh Hóa), sau theo học đạo Thiền sư Phù Trì ở chùa Long Thọ, nổi tiếng là uyên thâm đức độ. Tương truyền rằng chính Sư đã dùng nghệ thuật phù sấm, làm cố vấn giúp vua Lê Đại Hành nắm quyền bính, dẹp yên được hỗn loạn trong triều cuối đời nhà Đinh, được vua Lê vô cùng trọng vọng. Năm 990 niên hiệu Hưng Thống thứ 2, Sư không bệnh mà viên tịch, thọ 76 tuổi, để lại cho đời các tác phẩm: “Bồ Tát sám hối văn”, “Thơ tiếp Lý Giác”, và một bài kệ.
14/06/2011(Xem: 6456)
• Thiền sư Chân Không(Bính Tuất -1046): Sư họVương, thế danh Hải Thiềm, quê quán ở làng Phù Đổng (nay là Tiên Sơn-Bắc Ninh), xuất thân trong một gia đình quý tộc. Lúc thân mẫu của ông mang thai, cha ông nằm mộng thấy một vị tăng Ấn Độ trao cho cây tích trượng, sau đó thì ông ra đời. Mồ côi cha mẹ từ thuở niên thiếu, ông siêng chăm đọc sách không màng đến những chuyện vui chơi. Năm 20 tuổi ông xuất gia, rồi đi ngao du khắp nơi để tìm nơi tu học Phật Pháp. Nhân duyên đưa đẩy cho Sư đến chùa Tĩnh Lự ở núi Đông Cứu (Gia Lương-Hà Bắc), nghe Thiền sư Thảo Nhất giảng kinh Pháp Hoa mà ngộ đạo, được nhận làm đệ tử, sớm tối tham cứu thiền học, và được sư thầy truyền tâm ấn, thuộc dòng thiền Tì-ni-đa Lưu -chi, thế hệ thứ 16. Sau, Sư lên núi Phả Lại, trại Phù Lan (nay thuộc huyện Mỹ Văn-Hưng Yên) làm trụ trì chùa Chúc Thánh, ở suốt 20 năm không xuống núi để chuyên trì giới luật, tiếng thơm đồn xa đến cả tai vua.
13/06/2011(Xem: 14355)
Ôi, trong giáo pháp Phật đà của ta, việc trọng đại nhất là gì ? Con người sinh ra không từ cửa tử mà đến, chết không vào cửa tử mà đi. Thế nên người nằm non ở tổ, bỏ ngủ quên ăn, chẳng tiếc thân mạng, đều vì việc lớn sinh tử. Ở thời giáo suy pháp mạt này mà có người vì việc lớn sinh tử như Hòa thượng Liễu Quán, thật là hy hữu.
05/06/2011(Xem: 13086)
Ngôi chùa nhỏ nằm khiêm tốn trong khoảng đất rộng đầy cây trái. Buổi tối, mùi nhang tỏa ra từ chánh điện hòa với mùi thơm trái chín đâu đó trong vườn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]