Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Điếu Văn Tưởng Niệm HT Thích Minh Tuyền

01/09/201717:29(Xem: 5727)
Điếu Văn Tưởng Niệm HT Thích Minh Tuyền



Chan Dung HT Thich Minh Tuyen_1938-2017-b
ĐIẾU VĂN TƯỞNG NIỆM ÂN SƯ

HUÝ THƯỢNG MINH HẠ TUYỀN


Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Kính bạch chư Hòa Thượng hội đồng chứng minh tang lễ
Kính bạch chư Tôn đức trong Ban Tang Lễ.
Kính bạch chư Tôn đức hiện diện

Cho phép con thay mặt Tăng Ni tại Nhật bản có đôi lời kính niệm bậc ân sư
Nam Mô Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật
Hàng Tăng ni đệ tử chúng con cung thủ, phủ phục đê đầu đảnh lễ Giác linh Thầy
Kính lạy Thầy,
Vào giờ này một nỗi đau quặn thắt đang ngự trị giữa cõi lòng của hàng thất chúng đệ tử phủ phục trước linh sàng của Thầy, nói sao cho hết những nỗi niềm thương kính
Hỡi ôi
Xứ Phù tang mây trời như kín lại
Đến chư thiên cũng khe khẽ thầm thì
Tiễn thầy về trên lối vô vi
Hàng thất chúng muôn phần thương tiếc
Bóng thời gian xiêu đổ, mờ nhạt cuối trời xa
Thầy ung dung quay gót, nhẹ ngang chốn Ta Bà
Chúng con kính tường
Thuở ấu nhi 7 tuổi thầy gặp tôn sư, nghiên tầm bắt đầu học đạo
Đầy đủ thắng duyên, chùa Bửu Tích, Viên Trí hòa thượng cho thế phát xuất gia gieo mầm thánh chủng
Viện Phật học Hải Đức Nha Trang, thuở thiếu thời nung kinh nấu sử chẳng ngại khó khăn
Thuận thế thường luân, Nha trang xứ chứng minh, giới hạnh viên dung tỳ kheo Minh Tuyền đắc pháp hiệu
Từ đó
Minh chơn tỏa rạng, trung ý từ lương, khởi phát tuệ đăng
Tuyền thông khai lạch, nguyện tâm hải hà, vân du hành đạo
Lịch sử đã ghi dòng:
Đồng chân xuất gia từ thuở nhỏ
Nhập đạo vững một đường tu
Giới tướng viên dung, như trăng sáng xóa mây mù
Hạnh đức kiêm ưu, tợ đất trời tinh túy
24 tuổi kiêm toàn phần ưu tú học
Đất phương nam du hóa thỏa nguyện bút nghiên
Thủ Đức - Hàng Xanh, pháp Tạng tự dựng xây khai chốn tổ
Tuổi 34 đến phù tang quyết tìm sự học từ nguyên
Cao quý thay
Sức việt máu lạc hồng vun đầy trong huyết mạch
Dựng đạo bởi từ tâm thương mến đến cội nguồn
Dẫu hoang sơ vẫn kiên định trong niềm tin với đấng từ tôn
Gieo hạt giống thiện, cưu mang hồn dân tộc
Tháng năm lần lựa
Khổ đau nhường lối vô sinh
Hạnh từ hòa tuệ trí cao minh
Xứng đáng là bậc xuất trần thượng sĩ
Thầy mượn thân tứ đại
Lúc Hoa Kỳ, khi lại đến Úc châu
Đức quốc xa xôi mà tình huynh đệ nhiệm mầu
Việt Nam tự đủ duyên dựng xây
Khai mối đạo lương duyên trên xứ anh đào nhân thiện
Canh Dần niên đủ duyên khai tạo
Nét chạm trổ mang đạo đến với đời
Mang dáng hình dân tộc đến muôn nơi
Tâm thầy rộng chứa dung khôn kể
Nhâm thìn niên hoàn thành tâm nguyện
Mái chùa cong, vang vọng tiếng kinh trầm
Tuổi đã cao, sức tu thêm thậm thâm
Phật pháp nhiệm mầu, muôn vàn vi diệu
Đối với tổ đức tông môn:
Nụ cười Phật sự, lòng Thầy hoan hỷ
Nhất tâm dựng xây, trùng kiến phát huy
Tổ đường, liễng đối, màn trướng, hoành phi
Mang hồn dân tộc trên xứ khách quê xa, muôn điều khó nhọc
Bao nhiêu công trình còn đó
Vẫn còn trong giai đoạn thi công,
Chưa trọn tâm nguyện dựng xây
Trao cho hậu thế. 
Mà Thầy đã nhẹ gót Tây quy
Nhưng hôm nay thật đau đớn thay:
Duyên trần đến hồi phải mãn
Tụ tán quy luật thường tình
Trước dòng sinh tử-diệt sinh
Thầy vội Tây Phương nhẹ bước
Thân tứ đại có hồi đau ốm, mà chí vẫn Như nhiên
Xác ngũ uẩn đến khi suy yếu, nhưng nguyện sâu như Thánh vẫn vững bền!
Kể từ nay:
Lời dạy bảo vẫn còn văng vẳng
Nhưng dung nghi chẳng thấy nơi đâu
Chúng con thành kính khẩn thiết nguyện cầu
Cho Thầy trần lao vãn phãng.
Ao thất bảo trang nghiêm kết bạn
Nước Liên Trì có dáng ân sư
Chúng con tất dạ tạ từ
Bậc Thầy giới thân đức độ
Tổ đình việt Nam ai lâm mẫn cố
Tăng ni Việt Nam khắc cốt ghi tâm
Nhớ thương Thầy bóng dáng ai lân
Cầu nguyện xứ liên đài Thầy mĩm cười nhẹ bước
Kính bạch giác linh Thầy
Thầy là mẫu người: “Tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc” (Lo trước cái lo của thiên hạ, vui sau cái vui của thiên hạ). Thầy chỉ dạy tứ chúng từng li, từng tí trong cách ăn, thói ở giữa cuộc đời. Giáo dục chúng Tăng bằng những tinh hoa chắt lọc từ những Phật học đường, Phật học Viện mà Thầy đã trải qua. Với tâm bất biến giữa dòng đời vạn biến, Thầy thiện thệ qua bẫy đời giăng bủa chẳng nao nung. Khế lý, khế cơ nắm trong tay tùy duyên độ chúng. Tùy thời, tùy thế giữ trong lòng uyển chuyển đối nhân. Đạm bạt một đời để chăm lo cho hạnh phúc tha nhân, còn tấm thân thì gầy guột, héo mòn, bệ rạt. Thầy không ngại nắng mưa, gió sương, khuya sớm - cô thân, lẻ bóng, độc hành làm việc vì chúng con còn quá nhỏ không thể sớt chia. Đã bao lần Thầy dạy chúng con, trời đất vô cùng phải vững chải bước đi. Mỗi bước chân qua phải mang hương hoa cho cuộc sống.
Cả cuộc đời Thầy là chuỗi dài của sự thầm lặng hi sinh. Thầy mở rộng vòng tay, không một chút nề hà. Noi gương chí nguyện của Thầy, chúng con nguyện tiếp bước Thầy để kế tục khai lai, dựng xây hạnh nguyện độ sanh viễn xứ, để Tông môn vĩnh chấn, Tổ ấn trùng quang. Huynh đệ anh em chúng con đây sẽ chăm lo cho đàn em ăn học.
Mai đây, cuộc hành trình của hàng hậu học của Thầy sẽ bủa ra trăm hướng, và sẽ chẳng còn khó khăn nào nữa có thể làm nhục ý chí trượng phu mà Thầy đã ung đúc, tác tạo cho đâu. Thầy đã từng nhắn gởi chúng con rằng: “Bỉ ký trượng phu ngã diệc dĩ”(Kia trượng phu ta cũng trượng phu). Ý chí, nghị lực ấy đã tiếp cho chúng con sức mạnh để vượt qua những cơn bĩ cực của thế thái nhân tình.
Thầy đi rồi, Trượng thất đìu hiu, gió lộng vầng trăng tê tái,
Thầy đi rồi, Thiền đường quạnh vắng, lá rơi mặt đất não nùng.
Thầy đi rồi ! Giảng đường bặt tiếng phạm âm, Thích chúng gục đầu buồn tủi,
Thầy đi rồi ! Chánh điện lặng lời phục nguyện, Môn đồ nuốt lệ xót xa.
Chúng con,
Đôi mắt rưng rưng, quỳ thấp đôi chân kính lạy, Giác linh Thầy Phật quốc cao đăng,
Đôi mắt rưng rưng, chấp cao đôi tay khấn nguyện, Giác linh Thầy trực vãng Lạc bang.
Kính thương Thầy vô hạn,
Chúng con cung kính đảnh lễ kính Thầy.


Kính nguyện giác linh Hòa thượng thùy từ minh giám.
NAM MÔ TỪ LÂM TẾ CHÚC THÁNH TÔNG TỨ THẬP TỨ THẾ, NHẬT BẢN KHAI SƠN VIỆT NAM TỰ ĐƯỜNG THƯỢNG, HÚY THƯỢNG NGUYÊN HẠ PHÁP, TỰ MINH TUYỀN, LÊ CÔNG HÒA THƯỢNG GIÁC LINH.

Tăng Ni Phật tử Việt Nam tại Nhật đồng kính lễ giác linh Thầy.
TK. Thích Nhuận Phổ

Địa chỉ: Chùa Hòa Lạc Kobeshi, Nagataku Higashi Shiriike 8-2-14. 653-0022
Chùa Đại Nam Himeji, Shigocho, Sakamoto 157-1.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/06/2011(Xem: 4887)
Trận chiến thắng Bạch Đằng của Ngô Vương Quyền năm 939 là một dấu mốc quan trọng trong lịch sử dựng nước của Việt Nam. Ngọn sóng Bạch Đằng Giang đã cuốn trôi đi nỗi đau nhục của người dân nô lệ, nhận chìm tham vọng của nòi Hán áp đặt lên đất nước ta trong suốt một ngàn năm. Từ đây Việt Nam không còn là một huyện lỵ của người Hán, từ đây một quốc gia đúng nghĩa đã xuất hiện dưới vòm trời Đông Á.
24/06/2011(Xem: 7184)
Ngài họ Nguyễn húy là Hữu Kê, dòng họ của Đại thần Nguyễn Trãi. Nguyên quán thuộc Tông sơn Gia miêu Ngoại trang, tỉnh Thanh Hóa. Ngài thọ sanh năm Nhâm Tý (1912), tại làng Nguyệt Biều, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên. Vốn thọ sanh trong gia đình vọng tộc, quý phái, thích lý luận Nguyễn Hữu Độ.
24/06/2011(Xem: 4222)
Ngài Mật Thể, pháp danh Tâm Nhất, pháp tự Mật Thể, tên thật là Nguyễn Hữu Kê, sinh năm 1912 ở làng Nguyệt Biều, quận Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên. Chánh quán huyện Tống Sơn, Gia Miêu ngoại trang, tỉnh Thanh Hóa, thuộc dòng Thích Lý của Cụ Nguyễn Hữu Độ. Gia đình Ngài qui hướng đạo Phật, cụ thân sinh và người anh ruột đều xuất gia.
23/06/2011(Xem: 4845)
Đọc Thánh Đăng Ngữ Lục, do Sa môn Tánh Quảng, Thích Điều Điều đề tựa trùng khắc, tái bản năm 1750, ta thấy đời Trần có năm nhà vua ngoài việc chăn dân, họ còn học Phật, tu tập và đạt được yếu chỉ của thiền, như vua Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông và Trần Minh Tông. Và sự chứng ngộ của các Thiền sư đời Trần thì không thấy đề cập ở sách ấy, hoặc có đề cập ở những tư liệu khác mà hiện nay ta chưa phát hiện được, hoặc phát hiện thì cũng phải tra cứu và luận chứng dài dòng rồi mới kết đoán ra được.
23/06/2011(Xem: 5616)
Đọc sử Phật giáo Việt Nam, hẳn chúng ta đều biết nước mình có một ông vua đi tu ngộ đạo, đó là vua Trần Nhân Tông. Ngài làm vua trong thời gian nước nhà đang bị quân Mông Cổ đem đại quân sang xâm lấn nước ta lần thứ ba.
22/06/2011(Xem: 6207)
Trong sáu thập niên qua, TIME đã không ngừng ghi chép lại những vinh quang cùng khổ nhọc của Á châu. Trong số đặc biệt kỷ niệm thường niên hôm nay, chúng tôi muốn bày tỏ lòng kính trọng của mình đến những nhân vật nổi bật đã góp phần vào việc hình thành nên thời đại chúng ta. Những thập niên xáo động nhất của một lục địa đông dân nhất trên trái đất này đã sản sinh ra hàng loạt những nhân vật kiệt xuất. Trong sáu mươi năm qua, kể từ khi TIME bắt đầu cho xuất bản ấn bản Á Châu, chúng tôi đã có cái đặc ân là được gặp gỡ đa số những nhân vật ngoại hạng này –theo dấu cuộc vận động hay trên chiến trường, trong phòng hội hay trong phòng thí nghiệm, tại cơ sở sản xuất hay tại phim trường.
16/06/2011(Xem: 3835)
Tôi có duyên lành gặp được ngài một lần khi ngài đến thăm Hòa thượng chùa Đông Hưng, bổn sư của tôi, cũng là y chỉ sư của Hòa thượng Quảng Thạc, một để tử xuất gia của ngài khi còn ở đất Bắc. Cung cách khiêm cung, ngài cùng Hòa thượng tôi đàm đạo về quá trình tu tập cũng như Phật học, hai ngài đã rất tâm đắc về chí nguyện giải thoát và cùng nhau kết luận một câu nói để đời : “Mục đích tu hành không phải để làm chính trị”. Cũng câu nói này, khi chia tay chư tăng miền Nam, ngài đã phát biểu với hàng pháp lữ Tăng ni đưa tiễn. Khi sưu tập tư liệu về cuộc đời của ngài, tôi may mắn gặp được các bậc tri thức cao đồ của ngài kể lại. Nay, nhân có cuộc hội thảo về phong trào chấn hưng Phật giáo miền Bắc và công hạnh của ngài, tôi xin được góp thêm đôi điều.
14/06/2011(Xem: 5269)
Thiền sư PHÁP THUẬN (Bính Tý 918): Thiền sư đời Tiền Lê, thuộc dòng thiền Tỳ-Ni-Đa-Lưu Chi, không rõ gốc gác quê quán và tên thật, chỉ biết rằng Sư họ Đỗ, xuất gia từ thuở nhỏ ở chùa Cổ Sơn (Thanh Hóa), sau theo học đạo Thiền sư Phù Trì ở chùa Long Thọ, nổi tiếng là uyên thâm đức độ. Tương truyền rằng chính Sư đã dùng nghệ thuật phù sấm, làm cố vấn giúp vua Lê Đại Hành nắm quyền bính, dẹp yên được hỗn loạn trong triều cuối đời nhà Đinh, được vua Lê vô cùng trọng vọng. Năm 990 niên hiệu Hưng Thống thứ 2, Sư không bệnh mà viên tịch, thọ 76 tuổi, để lại cho đời các tác phẩm: “Bồ Tát sám hối văn”, “Thơ tiếp Lý Giác”, và một bài kệ.
14/06/2011(Xem: 5338)
• Thiền sư Chân Không(Bính Tuất -1046): Sư họVương, thế danh Hải Thiềm, quê quán ở làng Phù Đổng (nay là Tiên Sơn-Bắc Ninh), xuất thân trong một gia đình quý tộc. Lúc thân mẫu của ông mang thai, cha ông nằm mộng thấy một vị tăng Ấn Độ trao cho cây tích trượng, sau đó thì ông ra đời. Mồ côi cha mẹ từ thuở niên thiếu, ông siêng chăm đọc sách không màng đến những chuyện vui chơi. Năm 20 tuổi ông xuất gia, rồi đi ngao du khắp nơi để tìm nơi tu học Phật Pháp. Nhân duyên đưa đẩy cho Sư đến chùa Tĩnh Lự ở núi Đông Cứu (Gia Lương-Hà Bắc), nghe Thiền sư Thảo Nhất giảng kinh Pháp Hoa mà ngộ đạo, được nhận làm đệ tử, sớm tối tham cứu thiền học, và được sư thầy truyền tâm ấn, thuộc dòng thiền Tì-ni-đa Lưu -chi, thế hệ thứ 16. Sau, Sư lên núi Phả Lại, trại Phù Lan (nay thuộc huyện Mỹ Văn-Hưng Yên) làm trụ trì chùa Chúc Thánh, ở suốt 20 năm không xuống núi để chuyên trì giới luật, tiếng thơm đồn xa đến cả tai vua.
13/06/2011(Xem: 12986)
Ôi, trong giáo pháp Phật đà của ta, việc trọng đại nhất là gì ? Con người sinh ra không từ cửa tử mà đến, chết không vào cửa tử mà đi. Thế nên người nằm non ở tổ, bỏ ngủ quên ăn, chẳng tiếc thân mạng, đều vì việc lớn sinh tử. Ở thời giáo suy pháp mạt này mà có người vì việc lớn sinh tử như Hòa thượng Liễu Quán, thật là hy hữu.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567