Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Vượt lên hoài niệm vô thường…

10/02/201705:50(Xem: 5781)
Vượt lên hoài niệm vô thường…

Vượt lên hoài niệm vô thường…

Hoài niệm cuộc đời là những kỷ niệm thăng trầm biến động, để trở thành động lực hiện tại đến tương lai; nhưng cũng không hoàn toàn hướng thượng, mà lắm khi tồn đọng mặc cảm, tự ty mất đi lý sống thực tại nếu không nỗ lực vươn lên.

Hoài niệm về Đời và Đạo cũng không khác. Hoài niệm đời sống một cá nhân hay tập thể đã và đang xảy ra từ khi con người bắt đầu văn minh tiến bộ. Sự tiến bộ chính là những hoài niệm trở thành kinh nghiệm, được ghi lại, học lại từ kết quả quá khứ, để hoàn chỉnh cải tiến hiện tại. Và đạo, hoài niệm là nỗ lực gìn giữ truyền thống giải thoát mà Đức Phật đã hoằng hóa hơn hai ngàn sáu trăm năm.

Từ khi làn sóng người Việt tha hương đất khách, mang theo không biết bao nhiêu hoài niệm cuộc đời. Những cuộc đời nghiệt ngã tưởng đã chấm dứt ở quê hương khi đặt chân lên đất nước xa lạ, nào ngờ lại tiếp tục đối đầu với bao cay nghiệt của đời sống mới. Trong cuộc ly hương quá cảnh, trước khi đến quốc gia định cư, không ít người đổ lệ chia ly, buộc phải bỏ lại người thân yêu, thương mến... Đó là những ngôi mồ chôn tạm ở vùng đất xa lạ, hay sẽ thành vĩnh viễn cũng không chừng, vì tương lai hãy còn mờ mịt.

Cho đến bây giờ người Việt ly hương đã ổn định, hay vẫn còn đang vất vả an cư! Như thế tại các quốc gia người Việt định cư khắp nơi trên thế giới, hoài niệm mới, ước mong mới vẫn còn, vẫn diễn tiến trong tâm cảm, tâm thức của mọi người không ngừng nghỉ. Bởi vì sao? Vì cuộc sống là vậy! Nơi nào, không gian ở đâu, con người cũng phải tranh đấu, tranh đấu cho gia đình xã hội, tranh đấu miếng ăn, chỗ ở. Nếu may mắn thoát được sự tranh đấu lớn của chiến tranh, mà kết quả phải tha phương hôm nay, thì cuộc chiến ổn định hài hòa với nền văn hóa truyền thống mới vẫn còn là một cuộc chiến nội tâm không phải nhỏ. Và cuộc chiến nào cũng là cuộc chiến, chỉ khác ở mức độ cảm thọ mà thôi.

Với hàng Tăng sĩ đạo giải thoát, cũng vì lý tưởng và phương tiện tự hành, tự hóa đền đáp ân đức Tam Bảo nên cũng ly hương. Không phải ly hương vì cầu sống yên thân, vì miếng ăn chỗ ở. Tất nhiên ổn định hai việc ăn và ở là căn bản, giải quyết được các việc khác; nhưng nó không là tuyệt đối lý sống của người Phật tử xuất gia. Nó chỉ là một vài phần tri ân trong tứ ân, đó là ân chúng sanh, ân quốc gia thầy bạn. Nhưng ân nghĩa đó có thế nào, thì cũng phải trọn vẹn con đường giác ngộ giải thoát, như vậy mới đền đáp được ân đức Tam Bảo.

Cho nên sự ly hương là để thuận duyên hoằng hóa, làm rõ và lan rộng giáo pháp và hình ảnh Thế Tôn, hoặc vì để tránh nghịch duyên giữ gìn Chánh Pháp .

Trong vô số lời dạy của đạo giải thoát có câu “Duy tuệ thị nghiệp”, có nghĩa dành trọn đời sống của một hành giả bằng tư duy Chánh Pháp, và sự thọ nhận tri ân vạn vật hữu tình, vô tình nhiều ít ra sao, cũng không thể đánh mất đi tri kiến giác ngộ chứng đạo giải thoát.

Như thế hoài niệm của người tu sĩ Phật Giáo chỉ là vọng động từ tâm thức hướng cầu giải thoát, chứ không hoài niệm vì hình ảnh kỷ niệm, hay ân tình thầy trò, tông phái. Cho đến hoài niệm giác ngộ giải thoát phải được hiểu theo lý duyên khởi nhân duyên, chứ cũng không phải bám chấp, để sinh ra chấp pháp chấp ngã, ngược lại lời Phật dạy.

Thế thì hoài niệm nếu có của người Phật tử xuất gia, hay cư sĩ tại gia, chỉ là tri ân thuận duyên hành đạo. Hơn nữa ngày nào còn là phàm tục, chưa chứng Thánh quả, việc tri ân hoài niệm vẫn là điều hay đẹp, đạo đức thế gian, sẽ giúp được nhiều người noi theo, mà chính bản thân hành giả không rơi vào phân biệt khi hành pháp.

Chúng tôi có đôi lời phân giải như trên, đó cũng chính là hoài niệm và tri ân những bậc tiền bối, những vị tăng sĩ tiền nhân của nhiều thời đại trước và cũng ngay trong thời đại này. Hơn ba thập niên qua, hàng tu sĩ xuất gia rời khỏi quê hương, mang hình ảnh Tăng Già, mang sắc thái văn hóa Phật Giáo Việt Nam đã có mặt nhiều nơi trên thế giới. Từ Châu Mỹ, Châu Âu đến Châu Úc. Và cho đến nay gần một thập niên trở lại, một số chư vị đã lần lượt ra đi theo luật vô thường. Bản thân chúng tôi hàng Tăng Sĩ trẻ xuất gia hải ngoại hơn hai thập niên qua, cũng chứng kiến và ghi niệm xót xa sự vắng bóng nhiều vị tôn túc.


HT Nhu Hue
Tác giả cùng quý Sư Cô, Phật tử Chùa Pháp Bảo về thăm Hòa Thượng
trước 3 tuần Ngài viên tịch (tháng 6-2016)



Nay đến Hòa Thượng Thích Như Huệ, Ngài là cố Hội Chủ GHPGVNTN Hải Ngoại tại Úc Đại Lợi – Tân Tây Lan, chính thức ra đi đã gần một năm. Hòa Thượng là một trong những tăng sĩ đến Úc sớm nhất trong đầu thập niên 80. Ngài không chỉ gần gũi gắn bó tình huynh đệ với Thầy Bổn Sư Chúng tôi, mà đối với đạo tràng tu học chùa Pháp Bảo thì năm nào Thầy cũng có mặt. Ngài tham dự không phải để chứng minh, mà còn hướng dẫn tu học; khi sức khỏe không còn tốt nữa thì Thầy chỉ còn dự khai mạc, hoặc bế mạc; và vài năm trước khi mất Hòa Thượng tỏ ra buồn tiếc vì thân bệnh già yếu không còn tham dự thăm viếng đạo tràng khóa tu Gieo Duyên nữa.

Nhớ lại khi nghe tin Ngài sắp mất vì bệnh nan y, chỉ còn khoảng 1 tháng nữa; Tăng Ni Chúng Phật tử cư sĩ Tự viện Pháp Bảo có đến lễ thăm Hòa Thượng. Khi chúng tôi bước vào Trai Đường nhìn thấy Thầy, đang nhờ người giúp mặt áo tràng vào để tiếp khách; với chúng tôi tuổi đời và đạo chỉ là hàng con cháu, mà Ngài cũng trịnh trọng nghi cách, khiến tôi cảm thấy cảm động. Nhất là sắc diện của Thầy hoàn toàn đổi khác, hiện báo cho biết ngũ uẩn sắp suy tàn. Và cảm động hơn nữa là Thầy vẫn không hề biết cơn bệnh Thầy sẽ không qua khỏi ít tháng nữa. Tuy nhiên Thầy vẫn sáng suốt thăm hỏi sinh hoạt chùa viện. Hầu chuyện trà nước với Thầy không lâu, chúng tôi xin thỉnh Thầy vào phòng Tổ trước lễ lạy, sau lưu lại hình ảnh cuối của Thầy!



Hôm nay cận ngày Tiểu Tường của Hòa Thượng, chúng con xin dâng lên vài lời thô thiển để hoài niệm tri ân Ngài, đã để lại một ít tình thâm với Đạo Tràng Pháp Bảo, và một hình dáng vị tu sĩ cao niên, cho hàng hậu học thâm hiểu giáo nghĩa vô thường của chân lý Khổ Tập Diệt Đạo. Cầu nguyện, thế gian dù sinh diệt, nhưng người thực hành Chánh Pháp vẫn mãi mãi xuất hiện ở thế gian. Cầu nguyện Hòa Thượng sẽ tùy duyên hội nhập Ta Bà thuận duyên hoằng hóa.

Thiền Lâm Pháp Bảo, đầu Xuân Đinh Dậu 2017

Kính bái Giác Linh Hòa Thượng.

Đệ tử Thích Phổ Huân.

 

Xem bài cùng 1 tác giả:

n4-lopb-tphohuan-3

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/10/2014(Xem: 13242)
Nhân Vật Phật Giáo Thế Giới, do TT Thích Nguyên Tạng biên soạn từ 1990
01/10/2014(Xem: 7386)
Pháp danh : Trừng Thành Pháp tự : Chí Thông, Pháp hiệu : Thích Giác Tiên. Thuộc dòng Lâm Tế Chánh Tông đời thứ 42 Thế danh : Ngài họ Nguyễn Duy húy là Quyển. Thọ sanh năm Canh thìn, niên hiệu Tự Đức đời thứ 33 (1879). Chánh quán làng Giạ Lệ Thượng, xã Thủy Phương, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên. Năm 1883, lên bốn tuổi thì song thân đều mất. Ngài được ông bà bác đồng tộc đem về nuôi dưỡng. Nhờ bẩm chất thông minh nên thân thuộc cho theo Nho học một thời gian. Nhận thấy giáo lý Phật đà mới là con đường hướng đến cảnh giải thoát ; từ đó, ngài xin với thân thuộc xuất gia đầu Phật. Năm 1890, được 11 tuổi, ngài cầu thọ giáo với tổ Tâm Tịnh.
01/10/2014(Xem: 7496)
Phật Giáo Việt Nam thời cận đại đã viết lên trang lịch sử bằng máu, xương của Chư Tôn Đức Tăng Ni và Phật tử. Dòng lịch sử ấy đã nêu cao tấm gương hy sinh bất khuất trước những đàn áp, bạo lực, súng đạn, nhà tù và lựu đạn. Phải chăng đây là một chặng đường lịch sử oai hùng mà Phật Giáo Việt Nam đã biểu tỏ tinh thần Đại hùng, Đại lực, Đại Từ Bi để vực dậy một nền văn hóa đã bị sụp đổ bởi một chế độ tha hóa, ngoại lai xâm nhập vào quê hương Việt Nam.
01/10/2014(Xem: 9350)
Trên dòng lịch sử Phật giáo Việt Nam thời cận đại của những thập niên 30-40 có bậc Tôn túc của Ni giới xuất hiện, đồng hành với chư Tăng để xiển dương Phật pháp, đào tạo Tăng tài, xây dựng tự viện, giữ gìn giềng mối đạo pháp được bền vững. Bậc Tôn túc của Ni giới ấy là SB Diệu Không, người đã hy hiến cả đời mình cho đời lẫn đạo, SB đã lưu lại cho hậu thế một hành trạng sáng ngời cho đàn hậu học noi gương.
09/09/2014(Xem: 13111)
Hòa Thượng Thích Giác Thông, tục danh Đổ Văn Bé, sinh ngày 18 tháng 2 năm 1939 tại Mỹ Hòa Hưng, Huyện Châu Thành, An Giang, Long Xuyên. Trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân Phụ là Cụ Ông Đổ Nhựt Thăng, Thân Mẫu là Cụ Bà Nguyễn Thị Khiên, Hòa Thuợng là người anh cả trong số 6 anh em ( 3 trai, 3 gái ), được nuôi dưỡng trong một gia đình nông dân hiền lành, có truyền thống đạo đức, nên từ nhỏ Hòa Thượng đã là người sớm có tư chất hiền lương, có tâm thương người mến vật, là con có hiếu với ông bà cha mẹ.
06/09/2014(Xem: 7045)
Không biết đây là lá thư thứ mấy con đã viết mà không bao giờ gởi đi, bởi vì con biết thư có vượt ngàn dặm trùng dương bay về thì Thầy cũng vẫn không cầm đọc được, chứng bịnh Parkinson đã làm cho hai tay Thầy run nhiều quá nhưng nhân mùa Phật Đản nhớ đến Thầy, con lại muốn viết. Thời gian sau này, con vẫn theo dõi thường xuyên sức khỏe của Thầy, con buồn vô cùng, Thầy đã bị bịnh, không thoát khỏi qui luật sinh, lão, bịnh mà con thì ở xa quá, không thăm viếng cận kề Thầy được như ngày xưa nữa !
05/09/2014(Xem: 14629)
Còn đây của báu trong nhà Không là ngọc bảo, không là hoàng kim Bình thường chiếc áo tràng lam Mà sao quý vượt muôn ngàn ngọc châu! Những năm cầu thực dãi dầu Sớm mai tụng niệm, đêm thâu mật trì Dòng đời mãi cuốn con đi Về nương chốn tịnh có Thầy, có Ôn… Kinh truyền ban phát khuyên lơn
02/09/2014(Xem: 10359)
“Đầu lông trùm cả càn khôn thảy Hạt cải bao gồm nhật nguyệt trong” Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống. Sách Thiền Uyển Tập Anh (Anh Tú Vườn Thiền) ghi lại cuộc đối thoại giữa ngài với Thiền Sư Bản Tịch ở chùa Chúc Thánh, nhân dịp ngài cùng với thiền sư đến nhà đàn việt để thọ trai, trên đường đi sư hỏi: Thế nào là ý chỉ của Tổ Sư? Sao thầy lại nghe theo nhân gian làm những chuyện đồng cốt mê hoặc? Bản Tịch đáp: Lời nói ấy đâu phải là không do đồng cốt giáng thần? Sư thưa: Chẳng phải là Hòa Thượng đùa bỡn con hay sao? Bản Tịch đáp: Ta chẳng hề đùa bỡn tí nào! Sư không nắm được ý chỉ của thầy bèn cáo biệt ra đi.
12/08/2014(Xem: 15263)
Cô là 1 nữ sinh trẻ nhất của Sài Gòn đã anh dũng ngã xuống trước họng súng của quân thù tàn bạo trong 1 buổi sáng mùa thu năm 1963 trước cửa chợ Bến Thành, với hàng ngàn sinh viên, học sinh và nhân dân phật tử trước cửa chợ Bến Thành. Và ngay sau đó, Thành hội sinh viên học sinh Sài Gòn đã quyên góp vận động ủng hộ xây bức tượng thờ người nữ học sinh anh hùng tuổi 15 đặt ngay công trường Diên Hồng trước cửa chính chợ Bến Thành ngày nay với sự chứng kiến của hàng ngàn người dân, phật tử thành phố và sinh viên, học sinh.
09/08/2014(Xem: 11297)
Hòa thượng Họ Đinh, húy Văn Nam, là đệ tử của cố Đại lão Hòa thượng Thích Tịnh Khiết, Đệ nhất Tăng thống GHPGVNTN, pháp danh Tâm Trí, tự Minh Châu, pháp hiệu Viên Dung, sinh ngày 20 tháng 10 năm 1918 (Mậu Ngọ) tại làng Kim Thành (Quảng Nam); nguyên quán làng Kim Khê, xã Nghi Long, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Thân phụ là cụ ông Đinh Văn Chấp và thân mẫu là cụ bà Lê Thị Đạt. Gia đình Hòa thượng có 11 người anh em, Hòa thượng là con trai thứ tư trong gia đình. Vốn sinh trưởng trong gia đình vọng tộc Nho gia, thân sinh của Hòa thượng đỗ tiến sĩ Hoàng giáp năm 21 tuổi (khoa Quý Sửu 1913, niên hiệu Duy Tân thứ 7). Nhờ ảnh hưởng sâu đậm nền giáo dục của cụ ông từ bé, vì vậy Hòa thượng rất cần mẫn đèn sách, chăm chỉ học hành, trí tuệ phát triển sớm. Năm 1939, Hòa thượng đỗ bằng cao đẳng tiểu học Đông Dương; năm 1940 Hòa thượng đỗ tú tài toàn phần tại Trường Khải Định - Huế (nay là Trường Quốc Học); và cùng thời gian này, Ngài được bổ làm Thư ký Tòa Khâm sứ tỉnh Thừa Thiên. Sau một năm
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567