Huý Tâm Ngộ, hiệu Viên Giác, tự Chơn Thiện Hoà thượng Giác linh
Người về yên giấc ngàn năm
Tường Vân khuất ánh trăng rằm nguyên sơ.
Kể từ Tâm Ngộ thiền cơ
Kiếp người đọng lại vầng thơ dâng đời.
Bảy mươi năm lẻ rong chơi
Hơn năm thập kỷ ở ngôi cao toà.
Lối xưa Vạn Hạnh chưa nhoà
Đoá Chơn Thiện bỗng nở hoa bồ đề
Viên Giác tánh sáng cõi mê
Dấu hài còn đậm nẽo về tự tâm.
Huế, ngày 09/11/2016
Cựu học tăng Thích Trí Chơn (khóa 3 Vạn Hạnh, 1993-1997)
***
BÁI BIỆT
Thầy đi về cõi vô tung
Tăng Ni, Phật tử vô cùng tiếc thương
Tiễn Thầy về lại cố hương
Môn đồ pháp quyến giọt buồn trào dâng
Sinh viên Học Viện băn khoăn
Còn đâu điểm tựa, bao năm nương Thầy
Việt Nam Phật Giáo giờ đây
Thiếu bậc long tượng đắp xây móng nền
Tưởng còn có đủ cơ duyên
Con đường giáo dục trao truyền, xiển dương
Nào ngờ cơn lốc vô thường
Thầy về Tịnh Độ, Tây Phương lạc thành
Đỉnh trầm quyện tỏa Tường Vân
Tâm hương tiễn biệt, chí thành kính dâng.
Thích Nữ Như Minh
Thành Kính Bái Biệt
TƯỞNG NHỚ THẦY
Hòa thượng Thích Chơn Thiện
Ngài đại lão chân tu
Bậc đạo cao, đức trọng
Vị thượng trí nhân từ
Là đại biểu Quốc hội
Đậm tình dân thiết tha
Tâm tình Người căn dặn:
Mở rộng lòng vị tha
Giữ tâm ý thanh tịnh
An lành chính trong ta
“Những hạt sương”* lấp lánh
Chuyển đổi nghiệp cho đời
“Tăng già thời Đức Phật”
Triết lý mãi rạng ngời
Nhớ “Tìm vào thực tại”
Định tuệ và tinh cần
Tấm lòng còn để lại
“Tiếng Ca Lăng Tần Già”
“Kinh Pháp Hoa” biên khảo
Diệu pháp của Thế Tôn
“Tìm hiểu Trung bộ kinh”
Uyên thâm lời Phật dạy...
Viết về Hồ Chí Minh
Ước mơ là hiện thực
“Hương còn mãi” tâm phục
Đạo vị trong nhân gian
Một cuộc đời thanh trong
Hết lòng vì đạo pháp
Cho chúng sinh an lạc
Cho thế giới hòa bình
Cho dân tộc phồn vinh
Dự cảm nhiều hạnh phúc
Nay niên cao lạp trưởng
Thanh thản cỏi siêu sinh
Tiếng chuông chùa vọng ngân
Thầy thu thần viên tịch!
TP Huế, 08/11/2016
NGUYÊN TRAI
* Những chữ trong ngoặc kép là tên các tác phẩm của HT Thích Chơn Thiện
Cảm niệm: Mong đền ơn giáo huấn
Có ai hạnh phúc hơn tôi, đi học, trời mưa không về được, Hoà thượng ra gọi vào, ngồi uống trà, trò chuyện rồi ăn cơm cùng Ngài. Có ai may mắn hơn tôi, năm cuối làm luận văn tốt nghiệp, Hoà thượng là người hướng dẫn. Nhưng, không như những huynh đệ khác, Hoà thượng yêu cầu tôi phải mang đến từng chương một để Ngài xem và góp ý, chỉnh sửa. Ngài chỉnh sửa rất kỹ, từng câu, từng chữ.
Chiều ngày 04/11/2016, tôi nhận được điện thoại từ chị An Duyên - Phật tử chùa Nhân Hoà, Ba Lan, thường về Hà Nội: "Thầy ơi! Ra thăm Cụ Chơn Thiện gấp đi, con e là không kịp!".
Chiều hôm sau, máy bay vừa đáp xuống sân bay Nội Bài, tôi đi thẳng vào bệnh viện Vinmec thăm Hoà thượng. Đi cùng có chị Nguyên Giới ở Hà Nội và hai chị Diệu Vân, An Huệ ở Cộng hoà Séc - vùng Đông Âu mà Hoà thượng đã 3 lần đến hành đạo.
Trên tầng 07, phòng Presidence, tôi bước vào thì thấy có Hoà thượng Giác Toàn cùng quí tôn đức trong Ban Giáo dục Tăng Ni TW đang có mặt. Thầy Hương Yên - thị giả, đưa tôi vào gian phòng phía bên trái để viếng. Trước mắt tôi là một thân thể gầy guộc đến khó tả, vẫn với bộ đồ nhựt bình màu vàng nhạt quen thuộc, Hoà thượng nằm trên chiếc giường trải drap trắng. Tôi bàng hoàng, xúc động nắm lấy tay người. Thầy Hương Yên thưa: "Bạch Ôn có Thượng tọa Trí Chơn đến thăm". Khoảnh khắc ấy, những ngón tay yếu ớt của Ngài cố nắm lấy bàn tay tôi. Mắt nhoà đi, tôi ngước lên trần nhà để che dấu những giọt buồn không cầm được trong phút giây tử biệt. "Bạch Thầy, con Trí Chơn đến thăm Thầy", tôi thưa. Đôi mắt Ngài cố nhướng lên, đôi môi mấp máy như muốn nói điều gì đó mà không ra lời. "Con đang có mặt cho thầy và con vẫn đang có ở trong thầy. Kính mong thầy luôn bình an"... Miệng tuy thưa vậy, tâm thì rất dao động, không đủ năng lượng vững chãi, để có được tâm bình an thật sự cho Ngài. . .
Ngày 08/11/2016, về lại Sài Gòn, lúc sắp đến giờ cơm trưa, tôi nhận được điện thoại từ Thầy Huệ Trọng, nhưng khi "Alo" thì Hoà thượng Huệ Phước lên tiếng: "Huệ Phước đây thầy TC ơi. Ôn Tường Vân đi rồi, thầy ra Huế sớm nhé!". Nghe xong, tôi "Vâng" mà lòng nghẹn ngào, cố giữ sự bình thản, ngồi bất động không làm gì, chỉ quán sâu từng hơi thở vào ra của mình. Lại có thêm điện thoại: "Thầy Trí Chơn ơi, Chiều ra Huế nhé, HT. Chơn Thiện tịch rồi!" - Tiếng Hoà thượng Giác Toàn.
Tôi không chút nghi ngờ sự ra đi của Ngài, vì hôm đến bệnh viện, tôi đã nghĩ đến cái "giây phút phải đến" này, nhưng sao lòng cảm thấy bàng hoàng. Dù cố giữ sự tĩnh lặng nhưng tâm dao động đến khó tả. Bao hình ảnh của quá khứ lại ùa về. Những kỷ niệm của hơn hai mươi năm trước, khi Ngài làm Phó Hiệu trưởng Thường trực Trường Cao cấp Phật học, còn tôi đang là một học tăng. Khi đó làm Lớp Phó, nên tôi thường xuyên liên lạc với Ban Giám hiệu về việc trường, việc lớp mà trực tiếp là với Hoà thượng, nên từ đó thầy trò gắn bó nhiều hơn, gần gũi nhau hơn. Có ai hạnh phúc hơn tôi, đi học, trời mưa không về được, Hoà thượng ra gọi vào, ngồi uống trà, trò chuyện rồi ăn cơm cùng Ngài. Có ai may mắn hơn tôi, năm cuối làm luận văn tốt nghiệp, Hoà thượng là người hướng dẫn. Nhưng, không như những huynh đệ khác, Hoà thượng yêu cầu tôi phải mang đến từng chương một để Ngài xem và góp ý, chỉnh sửa. Ngài chỉnh sửa rất kỹ, từng câu, từng chữ. Có khi viết chưa hết chương Hoà thượng nói cứ đưa đến Ngài xem. Thế là, một, hai ngày, tôi lại đến trình bản thảo. Tôi nghĩ bản luận văn không chỉ mang tính thời sự - Phât giáo Việt Nam trong thế kỷ 20 và về GHPGVN - khiến Hoà thượng quan tâm, mà chính tình thương đặc biệt của Ngài dành cho, nên thầy trò gặp nhau gần như mỗi ngày. Từ việc học, nội dung luận văn lại trở thành câu chuyện mỗi khi thầy trò gặp gỡ suốt hơn hai tháng.
Trước ngày tốt nghiệp, tôi lên văn phòng nhận tập luận văn, chị Trang, chị Thuỷ - nhân viên văn thư của Trường - nói: "Những bản luận văn khác, Hoà thượng đọc xong, viết chữ "Duyệt" rồi cho tụi con đóng dấu. Luận văn của Thầy (TC), Hoà thượng . . . "cho" luôn 2 trang. Phần Giáo sư hướng dẫn, Ngài viết nguyên 1 trang và phần chấp thuận của nhà trường Ngài . . . làm thêm trang nữa". Thực ra, tôi đã biết điều này nhưng vẫn tỏ ra thân thiện, vui mừng và nhìn các chị mỉm cười hạnh phúc.
Thế rồi, tôi ra trường tham gia một số Phật sự được Giáo hội phân công, Hoà thượng thì về cố đô để lãnh đạo Học viện PG Huế; đồng thời, trụ trì ngôi cổ tự mà gần nữa thế kỷ trước Ngài đã tu ở đây. Thỉnh thoảng, tôi được hầu chuyện với Ngài hoặc ở Tường Vân, hoặc ở Vạn Hạnh, có khi ở nhà khách Quốc Hội trên phố Trần Hưng Đạo - Hà Nội.
Hai năm 2008 - 2009, Trung ương Giáo hội có chuyến hoằng pháp châu Âu gồm các nước Ba Lan, Đức, Hungary, Nga, Pháp, Séc và Ukraina, cả 2 lần đều do Hoà thượng làm Trưởng đoàn. Và, năm 2010 tôi thỉnh Hoà thượng sang chứng minh lễ Lạc thành chùa Giác Đạo, CH. Séc, ngôi chùa tôi nhận trách nhiệm trụ trì. Đó là khoảng thời gian 3 năm liền tôi được gần gũi, lân mẫn Ngài nhiều nhất. Có những lúc trên chuyến bay dài thâu đêm, có những khi trên cung đường quanh co dọc ngang xứ tuyết, thầy trò nói chuyện cùng nhau; Hòa thượng say sưa với những khám phá mới của mình về Tam học, Tứ đế, Duyên khởi ... Rồi, những câu chuyện về thời cuộc, có những tiếng cười giòn tan và có cả những ưu tư với nhiều dấu chấm than(!), chấm lững (...). Rồi, những câu chuyện về Phật giáo ngày hôm qua giúp tôi hiểu được nhiều hơn về các bậc thượng tôn, như: Đức Tăng thống Tịnh Khiết, HT. Giác Nhiên, HT. Tâm Châu, HT. Mật Nguyện, Thiền sư Nhứt Hạnh, Thượng nhân Trí Quang, Sư bà Diệu Không, Cư sĩ Lê Đình Thám ... Rồi, những câu chuyện thời sự về Phật giáo hôm nay để tôi hiểu được sự dấn thân của các bậc trưởng lão như, HT. Trí Thủ, HT. Mật Hiển, HT. Đôn Hậu, HT. Trí Tịnh, HT. Minh Châu, HT. Thiện Siêu, HT. Quang Thể .... Thậm chí, Ngài còn dự báo cho Phật giáo ngày mai, một ngôi nhà chung có nhiều cửa và, có rất nhiều người được quyền nắm giữ chìa khoá ...
Cuối năm 2015, Hoà thượng vào Sài Gòn dự Hội nghị tổng kết cuối năm của Giáo hội. Ngài chỉ dự có buổi sáng, chiều tôi đến Thiền viện Vạn Hạnh vấn an. Bước vào, gặp mấy vị khách đến từ Hà Nội, tôi định thoái lui thì Hoà thượng lên tiếng: "Thầy Trí Chơn vào đây chơi". Rồi như để tạo niềm tin với khách, Hoà thượng cầm tay tôi nói: "Thượng tọa Trí Chơn là người nhà". Thế là tôi được ngồi nghe . . . "việc nhà" - Nhà nước, và có cả việc nhà chùa.
Những tưởng, tình thầy trò tiếp tục sum họp, nghĩa Linh Sơn gắng kết duyên chung, để có thêm cơ hội được học hỏi từ Ngài, lấy sự chỉ bảo của Ngài làm tư lương hành đạo mà đền ơn giáo huấn. Nào ngờ, trời Thăng Long nói lời từ biệt, đất Cố đô mở lối đón về. Viện Vạn Hạnh từ nay chỉ còn trong di ảnh, Chùa Tường Vân sương lạnh phủ tháp mờ!
Báo thân Ngài về với bốn đại nhưng tuệ thân của Ngài đã ban khắp trong mỗi tăng, ni trẻ hôm nay.
Con, Tỳ kheo ni Hạnh Thanh, vừa là môn phái Linh Mụ ; nhưng thật ra, Ôn, cũng như con và cả Đại chúng Linh Mụ đều là tông môn Tây Thiên pháp phái. Vì Ôn Đệ tam Tăng thống tuy Trú trì Linh Mụ quốc tự, nhưng lại là đệ tử út của Tổ Tâm Tịnh, Khai sơn Tổ Đình Tây Thiên, được triều Nguyễn dưới thời vua Khải Định sắc phong là Tây Thiên Di Đà tự. Ôn Cố Đại lão Hòa thượng Đôn Hậu có cùng Pháp tự chữ Giác với quý Ôn là Giác Thanh, trong Sơn môn Huế thường gọi là hàng thạch trụ Cửu Giác và có thêm một hàng gọi là bậc danh tăng thạc học Cửu Trí (Chỉ cho các ngài Trí Quang, Thiện Minh, Thiện Siệu v..v...) Cố đô Huế là vậy ; đó là chưa kể nơi phát sinh ra danh Tăng ưu tú ngũ Mật nhị Diệu (Mật Tín, Mật Khế, Mật Hiển, Mật Nguyện, Mật Thể, Diệu Huệ và Diệu Không) và cũng là nơi đào tạo tăng tài, xây dựng trường Đại học Phật giáo đầu tiên không những chỉ cho Huế mà cả miền Trung việt Nam nữa. Ở Huế thường kính trọng các bậc chơn tu thực học, đạo cao đức trọng nên thường lấy tên chùa để gọi pháp
Một con người với nhiều huyền thoại bao phủ theo từng bước đi, dù ngàn năm trôi qua nhưng dấu ấn vẫn còn đong đầy trong tận cùng tâm thức, hạnh nguyện độ sanh vẫn lớn dần theo nhịp tử sinh, in dấu trên từng hoá độ, kỳ bí trong vô cùng không tận, không ngôn ngữ nào có thể diễn tả trọn vẹn. Một sự lặng thinh phổ cập trên từng đường nét, chỉ có cõi lòng thành kính tri ơn, nhớ ơn, biết ơn, được nhân dân tôn thờ lễ bái
Ngày 15-2-1965, tôi và thầy Chơn Thanh cũng như các học Tăng khác từ các nơi tập trung về Phật học viện Huệ Nghiêm dự thi tuyển vào khóa II của Phật học viện. Thầy thì từ Phật học đường Phổ Quang Gia Định đến, tôi thì từ Phật học đường Lưỡng Xuyên- Trà Vinh lên, tất cả cùng một chí hướng, một mục đích và một ước nguyện là thi đậu vào Phật học viện. Kết quả, thầy thi đậu lớp Sơ trung 2, tôi thi đậu vào lớp Sơ trung 1
Kính dâng Hoà Thượng Thích Tịch Tràng, để nhớ công ơn giáo dưỡng - Tôi ra thắp nhang nơi tháp mộ của Người, ngồi bên tháp rêu phong, vôi vữa đã lở ra từng mảng, đường nét đơn sơ giản dị như cuộc đời giản dị của Thầy, lòng chợt bâng khuâng nhớ thương thầy vô hạn. Tôi tự hỏi: “Động cơ nào đã thôi thúc Thầy nguyên là một vị giáo sư Pháp văn ưu tú con nhà quý tộc ở xứ Quảng, lại cắt ngang con đường công danh sự nghiệp, để vào đây nối bước theo chân Tổ mà nối đuốc đưa mọi người qua khỏi bóng đêm vô minh dày đặc và biến nơi đây thành một quê hương tâm linh cho tất cả ngưỡng vọng hướng về”.
Một sinh thể đã xuất hiện trong cuộc đời như chưa từng có, đến lúc từ giã ra đi cũng thật nhẹ nhàng như cánh nhạn lưng trời. Vốn xuất thân từ dòng dõi trâm anh thế phiệt, được bẩm thụ cái gen của tổ phụ từng nổi tiếng văn chương, lại hấp thụ tinh hoa của địa linh sông Hương, núi Ngự - một vùng đất được xem là cái nôi của văn hóa Phật giáo miền Trung. Khi trưởng thành, thể hiện phong thái của một bậc nữ lưu tài sắc vẹn toàn, nhưng túc duyên thôi thúc, sớm rõ lẽ vô thường, dễ dàng từ bỏ cảnh phú quí vinh hoa, hâm mộ nếp sống Thiền môn thanh đạm.
Cư sĩ Tâm Minh- Lê Đình Thám sanh năm Đinh Dậu (1897) tại làng Đồng Mỹ (Phú mỹ), tổng Phú Khương, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam-nay là tỉnh Quảng Nam- Đà Nẵng. Ông xuất thân trong một gia đình quyền quí nhiều đời làm quan.Thân sinh là Binh Bộ Thượng Thư Lê Đỉnh ở triều Tự đức.
Hòa thượng Thích Tịnh Khiết, thế danh là Nguyễn Văn Kỉnh, sinh ngày 17 tháng 11 năm Tân Mão (1890), tại làng Dưỡng Mông Thượng, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên. Thân sinh là cụ ông Nguyễn Văn Toán và cụ bà Tôn Nữ Thị Lý. Ngài là con trai thứ ba trong gia đình, bẩm tính thông minh, năm 15 tuổi Ngài đã tinh thông Nho học rõ lẽ xuất xứ ở đời, nhưng với chí khí xuất trần, muốn vươn tới một phương trời cao rộng Ngài đã xin phép song thân được xuất gia tầm sư học đạo.
Đại Lão Hoà Thượng Pháp danh Thượng Quảng Hạ Liên, Tự Bi Hoa, Hiệu Trí Hải thế danh Nguyễn Văn Chính, sinh năm 1926 – Bính Dần tại Sông Cầu – Tỉnh Phú Yên, trong một gia đình túc nho, tiểu thương, giàu lòng kính tin tam bảo, Hoà thượng là con thứ 8 trong gia đình với 09 Anh Chị Em được thân phụ là Cụ Ông Nguyễn Văn Phân – PD. Nhựt Minh và thân mẫu là cụ bà Võ Thị Dưỡng – PD.
Ngài thế danh là Nguyễn Xuân pháp danh Thanh Phong pháp tự Hoàng Thu hiệu Như Nguyện. Sinh ngày 01/06/1937 tai thôn Phú Cấp xã Diên Phú huyện Diên Khánh tinh Khánh Hoà. Thân phụ là cụ ông Nguyễn Ðối thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Lẻo pháp danh Trừng Lan. Ngài là anh cả trong 4 anh em.
Viết thêm một bài về Ngài Thiện Minh, dù nhiều vị đã viết
- Viết, vì thấy thêm một bài của Tâm Nguyên trên diễn đàn baovechanhphap
- Viết, vì Mùa Hạ 2009, tịnh niệm An Cư, tưởng nhớ tiền nhân, làm gì cho hôm nay, và nhắc nhở hậu bối mai sau Tương chao nhà quê Tăng Lữ
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường, nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.
May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland, Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below, may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma, the Land of Ultimate Bliss.
Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600 Website: http://www.quangduc.com
Chúng tôi sử dụng cookie để cung cấp cho bạn trải nghiệm tốt nhất trên trang web của chúng tôi. Nếu tiếp tục, chúng tôi cho rằng bạn đã chấp thuận cookie cho mục đích này.