Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tiểu Sử Cố Ni Sư Như Ngọc

06/09/201608:41(Xem: 8030)
Tiểu Sử Cố Ni Sư Như Ngọc

Hình Lưu Niệm SưBà ChùaTừVân

Tiểu Sử Cố
Ni Sư thượng Như hạ Ngọc

1909 – 1989

 

  1. I.     Thân thế:

 

Cố Ni Sư Pháp danh Như Ngọc, húy Nhựt Thạch, tự Diệu Ngọc, hiệu Giáo Ngôn.  Thế danh Trần Thị Thạch, sanh năm Kỷ Dậu 1909, tại ấp Long Bình, làng Long Đức, tổng Trà Nhiêu, tỉnh Trà Vinh.

 

Thân phụ là cụ ông Trần Văn Giác (1888 - 1945), Pháp danh Như Ý, tự Mật Tri.  Thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Như (1889 - 1971), Pháp danh Sương Lực, tự Chơn Tâm.

 

Song thân của CốNi Sư là bậc hiền đức, thâm kính Phật Pháp, là Phật tử thuần thành, thành viên sáng lập Hội Lưỡng Xuyên Phật Học Trà Vinh.  Cụ ông cũng là Biên Tập Viên và là Phó Quản LýTạp ChíDuy Tâm Phật Học của Hội.

 

Cụ ông là công chức, nhơn lúc đổi ra làm việc tại Hà Nội (1930 - 1933), gặp lúc chùa Quán Sứ đang trùng tu, hai cụ góp công cùng Chư Tôn Thiền Đức và nhiều nhơn sĩ Phật tử ở đây chung lo Phật sự.  Vì gia cảnh ở quê nhà đơn chiếc, thân mẫu của cụ ông tuổi đã già, hay đau ốm, nên cụ ông xin hưu trí sớm để về quê lo báo hiếu. 

 

Về tới quê nhà gặp lúc Chư Tôn Thiền Đức ở đây đang dự tính thành lập Hội Phật Học tại chùa Long Phước,cụ ông tham gia và tỏ ý định thế phát xuất gia.  Đang lúc Hội cần người chạy lo xin giấy phép lập Hội, khai trường, đồng thời xin ra tờ Tạp ChíDuy Tâm, chư Tôn Đức có lời khuyên cụ ông hãy hoãn ý định xuất gia để chạy vòng ngoài.  Cụ ông đi nhiều nơi kêu gọi, vận động các chùa hầu như khắp Nam Kỳ Lục Tỉnh, ra tới các chùa miền Trung, nên được nhiều chùa cùng nhiều đoàn thể biết tới việcthành lập Hội Lưỡng Xuyên Phật Họctại tỉnh nhà, cùng tham gia ủng hộ Hội được hoàn thành mỹ mãn.  Đến năm 1935, chùa Long Phước khai trường Phật Học Đường Lưỡng Xuyên, tiếp Tăng, độ chúng, đào tạo hàng loạt các vị Tăng tài, giới đức kiêm ưu, phụng sự Phật Pháp khắp nơi.  Phật Học Đường Lưỡng Xuyên là ngôi trường Phật Học đầu tiên trong lịch sử Phật Giáo miền Nam Việt Nam.

 

Cố Ni Sư có bốn anh em, chỉ CốNi Sư là con gái duy nhất nên ông bà rất cưng quý, giáo dục nghiêm túc.  Thuở ấy con gái ít được đi học, thế mà ông bà cũng cố gắng lo cho con mình được lên Sài Gòn theo học trường Nữ Học Đường.  Sau khi ra trường, Cố Ni Sư được học thêm các môn nữ công gia chánh khác để được đầy đủ Công Dung Ngôn Hạnh theo nề nếp khuôn mẫu truyền thống của một phụ nữ gia giáo Việt Nam từ ngàn xưa. 

 

Năm 17 tuổi (1925), vâng lịnh song thân, kết duyên với ông Dương Thế Trân (1903 - 1930), là cựu sinh viên École Normale Saigon, đang là Giáo Viên trường Tư Thục Nguyễn Văn Chưởng Trà Vinh.  Cuộc đời không mấy ai được hạnh phúc lâu dài.  Năm 1930, ông Dương Thế Trân bỗng lâm bạo bệnh qua đời, để lại hai con, một trai vừa lên ba tuổi, một gái mới tròn thôi nôi.Sớm gãy gánh cang thường, chưa mãn tang chồng, bỗng con gái lâm bịnh ngặt.  Chứng sốt tê liệt trẻ con thời đó chưa có thuốc trị, con trẻ đành phải chịu tật nguyền.Trước cảnh vô thường bịnh khổ mà không còn phương nào chữa trị được, âu chỉ còn có phép Phật nhiệm mầu mới mong nhờ hồng ân chư Phật gia hộ chữa lành bịnh tật cho con trẻ.

 

Chí đã quyết, nguyện cắt ái ly gia, Cố Ni Sư đành bỏ lại sau lưng cuộc sống yên lành nơi mái ấm với tình yêu thương của song thân và hai con thơ dại.  Quên tuổi đời son trẻ, một mình dấn thân vào nơi núi thẳm rừng sâu, cắt bỏ tóc xanh tầm Sư học Đạo, lập công bồi đức, tạo chút nhơn lành để phước ấm lại cho con. 

 Sa Di Ni 1941 Tân Tỵ

  1. II.               Thời kỳ Xuất Gia Tu Học

          Chí quyết tu hành

    

 

Chí đã quyết lên non cầu đạo (1935)

     Lòng nhiệt thành phước báo duyên may

          Núi Sam Châu Đốc vừa hay

Tới hang Bà Thợ gặp Thầy độ cho

     Phước Điền bậc thâm nho Trưởng Lão[1]

     Tổ Phi Lai chánh giáo chơn truyền

          Tam Quy Ngũ Giới chăm chuyên

Ngày lo công quả đêm thiền tịnh tu

 

     Trải ba năm công phu khổ hạnh

     Một ngày kia quảy gánh xuống triền

          Nhà dân xin nước giếng tuyền

Xảy bị chó cắn âu điềm chẳng may

     Về chùa vội bạch ngay Sư Phụ

     Thầy dạy rằng: Quả đủ cơ duyên

         Hãy mau xuống núi đi liền

Gặp thầy trị bịnh, bạn hiền đỡ nâng

     Căn lành sẵn có phước phần

     Ni Trường tạo dựng ích dân độ đời”

         Lạy Thầy từ tạ vâng lời

Hành trang thu xếp tạm rời sơn môn

 

Bậc xuất gia hằng luôn kham nhẫn

     Chí kiên trì tinh tấn tu hành

         Noi gương Phật Tổ độ sanh

Trên đường hóa đạo thực hành chí tu.

 

Ý thức được sự vô thường giả tạm của thế gian;nên sau đó nhiều lần suy nghĩ chính chắn, Cố Ni Sư đã tự cắt tóc mình cương quyết xả tục xuất gia, năm ấy Cố Ni Sư đã 25 tuổi đời.  Từ đấy, một mình một bóng, Cố Ni Sư vân du khắp nơi để tầm Sư học Đạo.  Trải qua ba năm trường, khắp miền Năm Non Bảy Núi của vùng Thất Sơn Linh Địa đều có dấu chân của Cố Ni Sư bước đến; nhưng vẫn chưa nơi nào hợp tâm thuận cảnh. 

 

Duyên may giong ruổi, một hôm đến chùa Phước Điền, hang Bà Thợ, Núi Sam, trước cảnh trí thiên nhiên thiền vị, Cố Ni Sư quyết định ở lại đây cầu Sư học Đạo.  Sau khi bái kiến Hòa Thượng Trụ Trì, được Thầy cho thế phát quy y.  Từ đó, ở lại chùa Phước Điền, trên kính Thầy, dưới nhường bạn, nhẫn nhục tu hành, công quả trong chùa hết sức cực nhọc, khi xuống triền gánh nước, lúc lên non kiếm củi, giã gạo nấu cơm, mọi việc trong ngoài hết sức lo toan.  Dù cực nhọc nhưng lúc nào Cố Ni Sư cũng chuyên cần tinh tấn.  Trải ba năm nương náu tại chùa Phước Điền, học xong bộ Tam Bảo chữ Nho, với tấm lòng chân thành học Đạo, Cố Ni Sư đã tự thân cầu học tại các Trường Hương, Trường Kỳ với các cụ Tổ như Tổ Khánh Anh, Tổ Huệ Quang, v.v... 

 

 

 Hình Lưu Niệm - Từ Vân Tự Mậu Thìn 1988

  1. III.           Quá trình Tu Học 1935 -1957

 

Năm 1935 – Ất Hợi:  Xả tục xuất gia, vân du khắp miền Năm Non Bảy Núi vùng Thất Sơn Châu Đốc, tầm Sư học Đạo.

 

Năm 1937 – Đinh Sửu:  Quy y thọ Ngũ Giới ngày Rằm tháng Bảy năm Đinh Sửu tại chùa Phước Điền núi Sam, tục gọi Chùa Hang Bà Thợ, Châu Đốc.

- Hòa Thượng Bổn Sư: thượng Huệ hạ Thiện, húy Hồng Chí.

 

Năm 1939 – Kỷ Mão:  Cùng Sư Bà thượng Diệu hạ Tấn húy Hồng Lầu nhập tự chùa Kim Sơn, Phú Nhuận, sáng lập Kim Sơn Phật Học Ni Trường.

                   Đèn Huệ Kim Sơn khêu tỏ rạng

                   Soi đường Ni Chúng rộng thênh thang

 

Năm 1941 – Tân Tỵ:  Thọ giới Sa Di Ni ngày mồng 10 tháng 3 năm Tân Tỵ (ngày 7 tháng 4 năm 1941) tại Đại Giới Đàn chùa Thái Nguyên, Thủ Đức.

- Hòa Thượng truyền giới húy Trường Bình, hiệu Vĩnh Hòa.

- Kiết hạ an cư tại chùa Bắc Kỳ Nghĩa Trang.

 

Năm 1942 – Nhâm Ngọ:  Chùa Kim Sơn Phú Nhuận lần đầu tiên khai Trường Hạ.

Cùng chư Ni chúng an cư tu học tại đây liên tục trong 3 năm.

 

Năm 1945 – Ất Dậu:  Nhập học, kiết hạ an cư tại chùa Long Hòa, Tiểu Cần, Trà Vinh.

- Trụ Trì: Tổ Huệ Quang.

 

Năm 1947 – Đinh Hợi:  Cùng chư Ni chúng chùa Kim Sơn nhập tự và trùng tu chùa Lý Dương Sanh, tục gọi chùa Bà Đầm, nay là chùa Từ Vân, Phú Nhuận.

Thường trú tại đây đến ngày viên tịch.

 

Năm 1949 – Kỷ Sửu:  Thọ Tỳ Kheo Ni Bồ Tát Giới ngày mồng 6 tháng 4 năm Kỷ Sửu tại Đại Giới Đàn chùa Giác Nguyên, Vĩnh Hội.

- Hòa Thượng Trụ Trì: Hành Trụ

- Hòa Thượng Ni truyền Giới: Đàm Thanh

Nhập học và kiết hạ an cư tại chùa Tăng Già, Vĩnh Hội.

 

Năm 1950 – Canh Dần:  Nhập chúng tu học và kiết hạ an cư tại chùa Huê Lâm, Chợ Lớn.

Rằm tháng 3 kiết đông tại chùa Hội Sơn, Gò Dưa, Thủ Đức.

Học xong Bộ Tứ Phần Luật do Hòa Thượng Ni Đàm Thanh, nay là Như Thanh, Trụ Trì chùa Huê Lâm, Chợ Lớn và chùa Hội Sơn, Thủ Đức, truyền giảng.

 

Năm 1952 – Nhâm Thìn:  Cầu Pháp với Tổ Khánh Anh, chùa Phước Hậu, Trà Ôn.  Được Tổ truyền trao Kệ Phái Chánh Pháp Nhãn Tạng.  Tổ đặt cho Pháp hiệu Giáo Ngôn, nay gọi là Như Ngôn.

 

Năm 1956 – Bính Thân:  Nhập học Trường Hương tại chùa Giác Nguyên, Vĩnh Hội.

- Hòa Thượng Trụ Trì: Hành Trụ

Kiết hạ an cư tại chùa Tăng Già, Vĩnh Hội.

 

Năm 1957 – Đinh Dậu:  Nhập chúng tu học tại Phật Học Ni Trường Dược Sư, Gia Định, ngày 12 tháng Tư.

Dự học Khóa Huấn Luyện Trụ Trì, khai giảng ngày 19 tháng Tư, mãn khóa ngày Tự Tứ Rằm tháng Bảy năm Đinh Dậu.

 

 

 

  1. IV.            Hành Đạo hóa đời

 

Từ đây Giới Phẩm đầy đủ, nội điển làu thông, Cố Ni Sư phát nguyện thọ trì Kinh Đại Thừa, chuyên niệm Đức Quán Thế Âm, thường khuyên dạy Phật tử làm lành lánh dữ, cúng dường Tam Bảo, phóng sanh, bố thí ...

 

Cuộc đời tu học của Cố Ni Sư thật rất cam go, gian khổ.  Khi mới xuất gia, ẩn chốn lâm sơn cùng cốc, suốt 6 năm trường tinh tu khổ hạnh.  Sau khi xuống núi gặp thầy, gặp bạn, nhập chúng tu học Chánh Pháp cho đến ngày viên tịch.  Trải 49 năm ở chốn Đại Già Lam Đạo Tràng nghiêm tịnh, trên nửa thế kỷ đời người tu hành thật dõng mãnh tinh tấn,Cố Ni Sư rất siêng tu cần học, tánh tình bộc trực, phóng khoáng hồn nhiên.  Trên đối với bậc Tôn Trưởng rất mực cung kính, dưới đối với bạn học đồng tu thật là ngay thảo, đối với chư Phật tử hết lòng thương xót, hay cứu giúp những người hoạn nạn khốn cùng; đối với con cháu trong gia đình quyến thuộc, thường hay răn dạy bỏ tâm kiêu xẻn, tu mười pháp lành, bố thí cúng dường, cung kính Tam Bảo.

 

Đối với Phật Pháp, Cố Ni Sư rất nhiệt thành lo Phật sự: từng là cột trụ của Cố Sư Bà Kim Sơn, sáng lập Kim Sơn Phật Học Ni Trường, đồng thời trợ lực Sư Trưởng lo Phật sự tại chùa Hội Sơn Thủ Đức, chùa Huê Lâm Chợ Lớn và xây cất chùa Phổ Đà Vũng Tàu đến khi hoàn mãn.

 

Nhiều lần Sư Trưởng dạy Cố Ni Sư ở lại chùa Phổ Đà, nhưng bổn nguyện Cố Ni Sư không rời bỏ huynh đệ, nên trở về hiệp lực cùng chư Ni chùa Kim Sơn trùng tu ngôi Tam Bảo Lý Dương Sanh Tự để làm Tổ Đình, nay là chùa Từ Vân.

 

Khi chư Ni ở Nam Bộ dự trù tìm mua đất để xây cất chùa Từ Nghiêm và thành lập Trụ Xứ Ni Bộ thì Cố Ni Sư đã sốt sắng đóng góp công sức chung lo.

 

Thấy đất nhà còn rộng, Cố Ni Sư về xin với thân mẫu cúng dường cho Ni Sư chùa Liên Quang xây cất nên Ni Tự tại tỉnh nhà, để chư Ni ở các nơi am cốc hẻo lánh có chỗ nương về tu học, kiết hạ an cư hoặc khi ốm đau được ở tại Châu Thành cho tiện việc thuốc thang điều trị.

 

Cũng trong thời gian rảnh rỗi còn lưu lại quê nhà, Cố Ni Sư đã dịch và tuyên giảng bộ Giới Bổn cho chư Ni không đủ phương tiện nhập chúng tu học ở các Đạo Tràng Ni Bộ.  Đồng thời có những năm, từ Rằm tháng Giêng đến Rằm tháng Tư, Cố Ni Sư về Trà Vinh cùng với Sư Bà Diệu Tài, cũng gọi là Bà Cô Trà Vinh, tu hạnh khất thực, cùng đi trì bình khắp các làng quê tại tỉnh nhà, nên chư Phật tử tại đây đều rất quý kỉnh.

 

Chư Tôn Hòa Thượng Tỉnh Hội Trà Vinh thấy Cố Ni Sư có khả năng gánh vác Phật sự nên gọi về cho thay thế Hòa Thượng Trụ Trì chùa Long Khánh đã quá già yếu, nhưng Cố Ni Sư đã từ chối, chỉ khăng khăng nương cùng chư huynh đệ chung lo Phật sự tại chùa Từ Vân.

 

Trong thời Pháp nạn (1963), đáp ứng lời kêu gọi của Giáo Hội cùng chư Tăng Ni Phật tử tranh đấu biểu tình tuyệt thực tại chùa Xá Lợi, Cố Ni Sư đã từng chung chịu sự đàn áp của cường quyền thuở đó.

 

Đối với đồng bào, Cố Ni Sư lo việc từ thiện, ủng hộ Viện Bảo Trợ Nhi Đồng tổ chức giữ trẻ cho đồng bào lao động nghèo ngay trong xóm chùa Bà Đầm.  Cố Ni Sư tham gia Hội Truyền Bá Quốc Ngữ để chống nạn mù chữ. Năm 1954-1955, mở lớp học ngay tại chùa, cùng với Sư Bà Như Trí (hiện nay Tọa Chủ chùa Thiên Long, Bình Thạnh) đứng dạy cho đồng bào biết đọc, biết viết.

 

Cố Ni Sư thật đã thi vi Bồ Tát Đạo, hợp với lý Phật Pháp bất ly thế gian, lợi hành đồng sự, giáo hóa độ sanh.

 

 

 

  1. V.               Dự tri thời chí

 

Tuổi đời chồng chất, tuổi Đạo càng cao, tự biết trước ngày ra đi vĩnh biệt, nên từ một năm trước Cố Ni Sư đã đem hết kinh sách của mình tu học tự bấy lâu chia tặng cho các vị Ni Sinh chùa Từ Vân, Từ Nghiêm, Kim Quang, Vạn Hạnh, v.v...  Ngoài ra nào tràng hạt, chuỗi tay, y áo, các vật dụng lớn nhỏ, Cố Ni Sư đều thu xếp, tùy vật tùy người trao tặng cho hết.  Đồ tẩn liệm cũng tự lo liệu đầy đủ, đến khi viên tịch chẳng có gì thiếu sót.

 

Vào cuối năm Mậu Thìn 1988, Cố Ni Sư lâm trọng bịnh, sau khi bình phục, Cố Ni Sư thường hay nói: “Tôi mộng thấy được về cảnh giới của tôi để vào trường thi, nhưng chưa tới kỳ, sang năm tôi sẽ được vào và thi đậu.”  Quả vậy, từ đầu Xuân Kỷ Tỵ 1989, các Phật tử về chùa Từ Vân, hễ ai đến thăm hỏi Cố Ni Sư, thì Cố Ni Sư thường hay nói lời từ biệt và khuyên nhắc Phật tử rán lo tu niệm.  Đến Lễ Phật Đản ngày Rằm tháng Tư, Cố Ni Sư từ giã Phật tử và nói: “Rằm này quý vị còn gặp tôi, chớ Rằm sau không còn gặp nữa đâu.”  Ai nghe cũng tưởng Cố Ni Sư nói chơi vậy thôi, vì thấy Cố Ni Sư tuy đã yếu nhưng hãy còn rất sáng suốt, ăn uống, ngủ nghỉ, ra vào rất tự nhiên.  Lễ Kiết Hạ An Cư hôm đó, Cố Ni Sư cũng lên chánh điện cùng chư đại chúng làm lễ như thường lệ.

 

Nào ngờ đâu, vào cuối tháng Tư, đêm ba mươi, sau thời khóa Lễ Sám Hối, Cố Ni Sư trở bịnh, làm mệt, phải đưa đi bịnh viện cấp cứu.  Ban đầu, Cố Ni Sư không chịu đi, sau vì ý kiến chung trong đại chúng cùng thân nhân của Cố Ni Sư nên Cố Ni Sư buộc lòng phải chịu.

 

 

 

  1. VI.           Thời kỳ viên tịch

 

Sau hai ngày ở bịnh viện, trải qua nhiều lần xét nghiệm càng làm cho bịnh tình thêm trầm trọng, Cố Ni Sư quyết đòi về chùa.  Đến sáng ngày mồng 3 tháng 5, bác sĩ mới chịu ký giấy cho xuất viện.

 

Với tâm trạng vô cùng hoan hỷ hiện rõ trên nét mặt, tuy rất mệt nhọc, Cố Ni Sư vẫn còn rất tỉnh táo lắng nghe lời thuyết giảng của Thầy Minh Thanh cùng những tiếng niệm Phật của chư đại chúng.  Hơi thở yếu dần, nét mặt bớt vẻ mệt nhọc, từ từ trở nên bình thản, đến 4 giờ chiều Cố Ni Sư nhẹ nhàng trút hơi thở cuối cùng thị tịch, có đủ chư Đại Đức Tăng Ni, huynh đệ thân thương tại chùa Từ Vân niệm Phật tiếp dẫn.  Hồi trống sấm chuyển vang rền, Phật tử các nơi tề tựu về hộ niệm.

 

Đến 10 giờ đêm, chư Ni nấu nước hoa tắm thay đồ cho Cố Ni Sư, thấy trên đỉnh đầu Cố Ni Sư hãy còn nóng ấm trong khi toàn thân đều giá lạnh.  Nét mặt như rất tươi tỉnh, miệng tựa mỉm cười dường như cùng chư đại chúng nói câu “Nhứt biệt trường từ”.

 

81 tuổi đời, 55 năm ở chốn Đạo Tràng, 49 Hạ lạp, Phật sự đã tròn, công viên quả mãn, nay Cố Ni Sư xả báo thân này, vãng sanh Lạc Quốc.

 

Cuộc đời tu học của Cố Ni Sư thật đầy đủ, Sự Lý viên dung, con đường hành Đạo của Cố Ni Sư đã trải qua thật đáng cho hàng Phật tử chúng ta nối bước tiến lên ...

 

Tấm gương cao khiết, bậc Thiền Ni

Trong sáng làu làu hạnh xả ly

Sứ mạng đã xong tròn bổn nguyện

Giữa mùa sen nở đã ra đi ...

 

Từ Vân đà vắng bóng                       

Đá ẩn ngọc Ma Ni

Bồ Tát Hạnh thi vi

Suốt đời tu lặng lẽ

 

Chăm khuyên già, dạy trẻ

Giữ quy giới tu hành

Biết lánh ác làm lành

Nay đã tròn bổn nguyện.

           

      Nhẹ nhàng buông xả báo thân

Trở về nước Phật trong ngần lưu ly !

      Nụ cười hoan hỉ từ bi

Hãy còn phảng phất dung nghi của Người ...

      Từ Vân hoa cỏ xinh tươi

Còn lưu vẻ ngọc, nét vui hiền hòa !

           

                             Ngọc ẩn đá riêng mình ngọc biết

                             Sen trong bùn một tiết thơm thanh

                                Tu hành chí quyết độ sanh

               Lòng Từ trải rộng duyên lành khắp gieo.


  Nam Mô Thường Tinh Tấn Bồ Tát Ma Ha Tát

 

 Từ Vân Tự, Phật lịch 2533, Kỷ Tỵ 1989
Viên Huệ Dương Chiêu Anh

    



[1] Hòa Thượng Huệ Thiện, húyHồng Chí, đệ tử của Sư Tổ Phi Lai, dòng Lâm Tế Chánh Tông.

Hình Lớp HuấnLuyện GiáoViên TBQN 1953Hình Lưu Niệm - Chú NguyệnHình Lưu Niệm - Nụ cười ...Hình Lưu Niệm - Phóng SanhÔng Trần Văn Giác -  Chùa Quán Sứ, Hà Nội (Thập Niên 1930)Ông Trần Văn Giác - Carte de la Presse 1935Ông Trần Văn Giác - Hội Lưỡng Xuyên Phật Học Trà Vinh (Thập Niên 1930)Ông Trần Văn Giác (Ông Ngoại của Chiêu Anh)Ông Trần Văn Giác cùng Tổ Huệ Quang - Hội Lưỡng Xuyên Phật Học Trà Vinh (Thập Niên 1930)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
11/11/2020(Xem: 9927)
Trong quyển Yếu giải kinh A Di Đà lần đầu tiên xuất bản ở Việt Nam cũng như trên thế giới được in cả nguyên tác bằng chử Hán của Đại sư Linh Phong Ngẩu Ích cùng bản dịch Anh ngữ của Tiến sỉ J.C. Cleary và phần dịch sang Việt ngữ có chú giải của chính mình, học giả Lý Việt Dũng đã… “tự bạch” về “tiểu sử dài lòng thòng đáng chán của Song Hào Lý Việt Dũng”. Trong đó ông thẳng thắng nhận rằng: “Về quan điểm cuộc sống, tôi là người lạc quan tếu… Tôi cũng chay mặn tùy duyên, không bó thân trong những giới luật xa rời cuộc sống, chẳng có bổn sư vì chẳng quy y ai, chẳng có giới xơ cứng để giữ, sống đa cảm tự tại, có hơi “quậy” một chút!”.
21/10/2020(Xem: 5698)
Thời gian 5 năm, so với tuổi thọ trung bình của con người thì chưa thể gọi là dài lâu, nhưng với từng sát na vô thường trong chốn nhân gian thì rất đáng kể cho một sự mất mát vô lượng. Cố Hòa Thượng Thích Thông Quả (1937 – 2015) viên tịch ngày 13/09 năm Ất Mùi (nhằm ngày 25/10/2015) Hạ lạp 32, Trụ thế 78. Ngày ấy, bài viết nhanh chóng được hình thành khi hay tin Cố Hòa Thượng viên tịch “Một dấu lặng yên bình giữa từng nốt nhạc”, trong đó có câu làm ray rức cõi lòng đối với những ai có liên quan đến văn nghệ Phật giáo: “Những nốt nhạc dù đang nhảy múa ở độ trầm bổng, lên cao hay xuống thấp ở quảng năm, quảng sáu, chỉ cần một dấu lặng ấy nằm giữa khe (La – Si), tức khắc sẽ dịu êm và đi vào hư vô, trả lại cho nhân thế những xô bồ, ồn ào phiền trược mà những nền nhạc trong vắt này vốn không bị tạp nhiễm từ lâu…”
04/09/2020(Xem: 8797)
Thư Khánh Tuế (Viện Tăng Thống, TK Thích Tuệ Sỹ) diễn đọc: Phật tử Diệu Danh, lồng nhạc: Phật tử Quảng Phước
21/08/2020(Xem: 4712)
Nam Mô Đại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ Tát Kính gởi Quý Vị Một điều mầu nhiệm năm nay ngày 8.8.2020 dương lịch cũng đúng vào ngày Vía của Đức Quán Thế Âm Bồ Tát 19.6 năm Canh Tý, trùng phùng với ngày Húy Kỵ của Hòa Thượng Ân Sư. Kính xin gởi đến Quý Vị youtube hình ảnh ngày lễ Húy Kỵ của Hòa Thượng Ân Sư Khánh Anh 19.08.2020, tức mùng 1.7 năm Canh Tý, tại chùa Khánh Anh Evry-Courcouronnes.
17/08/2020(Xem: 6798)
Hòa Thượng Thích Thiện Huệ vừa viên tịcn tại chùa Phước Hưng, Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp.ĐẠI LÃO HÒA THƯỢNG THÍCH THIỆN HUỆ Thành viên Hội đồng Chứng minh Giáo hội Phật giáo Việt Nam; Chứng minh Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Đồng Tháp; Nguyên Ủy viên Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam; Nguyên Ủy viên Ban Tăng sự Trung ương GHPGVN; Nguyên Trưởng ban Trị sự GHPGVN tỉnh Đồng Tháp; Nguyên Thành viên Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Đồng Tháp; Nguyên Hiệu trưởng Trường Trung cấp Phật học tỉnh Đồng Tháp; Trụ trì chùa Phước Hưng, phường 1, Tp. Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp.
16/08/2020(Xem: 6634)
Hôm nay ngày 16/8/2020, để tưởng nhớ công đức cao dày của Cố Hoà thượng Thích Minh Tuyền, Khai sơn Chùa Việt Nam tại Nhật bản, môn đồ tứ chúng bổn tự chùa Việt Nam đã tổ chức Lễ Huý Nhật lần thứ nhất của Cố Hoà thượng Tôn sư. Tuy Ân sư đã quảy gót về Tây được 3 năm, nhưng hình bóng và ân đức của Ngài luôn mãi trong trái tim của chúng con. Ngưỡng nguyện Giác linh Hoà thượng thuỳ từ chứng giám. Do tình hình dịch bệnh tại Nhật bản đang còn diễn biến phức tạp, nên Lễ Huý Nhật của cố Hoà thượng năm nay chỉ tổ chức nội bộ huynh đệ Phật tử trong chùa. Chư tôn đức Tăng Ni Việt nam tại Nhật bản cũng đã đến đảnh lễ Giác linh nhân Lễ Huý Nhật của Ngài.
16/08/2020(Xem: 7864)
Thân phụ Ngài là một nhà Nho, nên Ngài đã được thụ giáo từ khi mới lên 5 tuổi. Đến 7 tuổi Ngài được vào học trường huyện. Nhờ bẩm chất thông minh, Ngài luôn chiếm ưu hạng. Sau một thời gian Ngài được chuyển lên học trường tỉnh. Đây là nơi Ngài có thể sôi kinh nấu sử để mai sau danh chiếm bảng vàng, làm rạng rỡ tông đường. Ngờ đâu ngày 22 tháng 5 năm Ất Dậu (1885) kinh đô Huế thất thủ. Vua Hàm Nghi phải xuất bôn, và xuống chiếu Cần Vương. Vừa lúc đó có kỳ thi Hương tại trường thi Bình Định, các sĩ tử cùng nhau bãi thi, phá trường, hô hào tham gia phong trào Cần Vương, chống Pháp cứu nước. Ngài cũng xếp bút nghiên, gia nhập hàng ngũ nghĩa quân Bình Định của các Ông Mai Xuân Thưởng, Bùi Điều.
10/08/2020(Xem: 4313)
ĐÀI TRUYỀN HÌNH HƯƠNG SEN TEMPLE Kính Mời tham dự Online Facebook Livestream: Huong Sen Temple LỄ GIỖ CỐ NI TRƯỞNG TN HẢI TRIỀU ÂM lần thứ 7 Lúc: 9g sáng Thứ Tư, ngày 12/08/2020 tại Chùa Hương Sen, California Trân trọng kính mời. Trụ trì Thích Nữ Giới Hương, Ni sư TN Tâm Nhựt, Sư cô Liên Tạng, SC Viên Tiến, SC Viên Chân, SC Viên An và SC Viên Trang... Nam Mô A Di Đà Phật.
14/07/2020(Xem: 15707)
Trang nhà Quảng Đức vừa nhận được ai tin: Hòa Thượng Thích Phước Sơn (1937-2020) vừa thuận thế vô thường, thâu thần viên tịch vào lúc 3h15 phút sáng nay 16/4/Canh Tý , Chủ Nhật ngày 07 tháng 6 năm 2020 tại Sài Gòn, Việt Nam. Chương trình tang lễ sẽ được công bố trong thời gian sớm nhất có thể. Hòa Thượng Thích Phước Sơn là một bậc cao tăng thạc đức, một nhà Phật học lỗi lạc, một dịch giả, tác giả nổi tiếng, một giáo thọ sư của nhiều thế hệ tăng ni Việt Nam. Chúng con thành kính nguyện cầu Hòa Thượng tân viên tịch Cao Đăng Phật Quốc và sớm tái sanh trở lại thế giới Ta Ba để tiếp tục công cuộc hoằng Pháp lợi sanh. Nam Mô Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật Chủ Biên Trang Nhà Quảng Đức Cựu học tăng tại Vạn Hạnh (khóa 3) TK. Thích Nguyên Tạng
12/07/2020(Xem: 12490)
Thư Mời Viết Bài Hội Thảo Khoa Học "Thiền Phái Lâm Tế Chúc Thánh, Lịch Sử Hình Thành và Phát Triển"
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]