Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tiểu Sử Cố Ni Sư Như Ngọc

06/09/201608:41(Xem: 7939)
Tiểu Sử Cố Ni Sư Như Ngọc

Hình Lưu Niệm SưBà ChùaTừVân

Tiểu Sử Cố
Ni Sư thượng Như hạ Ngọc

1909 – 1989

 

  1. I.     Thân thế:

 

Cố Ni Sư Pháp danh Như Ngọc, húy Nhựt Thạch, tự Diệu Ngọc, hiệu Giáo Ngôn.  Thế danh Trần Thị Thạch, sanh năm Kỷ Dậu 1909, tại ấp Long Bình, làng Long Đức, tổng Trà Nhiêu, tỉnh Trà Vinh.

 

Thân phụ là cụ ông Trần Văn Giác (1888 - 1945), Pháp danh Như Ý, tự Mật Tri.  Thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Như (1889 - 1971), Pháp danh Sương Lực, tự Chơn Tâm.

 

Song thân của CốNi Sư là bậc hiền đức, thâm kính Phật Pháp, là Phật tử thuần thành, thành viên sáng lập Hội Lưỡng Xuyên Phật Học Trà Vinh.  Cụ ông cũng là Biên Tập Viên và là Phó Quản LýTạp ChíDuy Tâm Phật Học của Hội.

 

Cụ ông là công chức, nhơn lúc đổi ra làm việc tại Hà Nội (1930 - 1933), gặp lúc chùa Quán Sứ đang trùng tu, hai cụ góp công cùng Chư Tôn Thiền Đức và nhiều nhơn sĩ Phật tử ở đây chung lo Phật sự.  Vì gia cảnh ở quê nhà đơn chiếc, thân mẫu của cụ ông tuổi đã già, hay đau ốm, nên cụ ông xin hưu trí sớm để về quê lo báo hiếu. 

 

Về tới quê nhà gặp lúc Chư Tôn Thiền Đức ở đây đang dự tính thành lập Hội Phật Học tại chùa Long Phước,cụ ông tham gia và tỏ ý định thế phát xuất gia.  Đang lúc Hội cần người chạy lo xin giấy phép lập Hội, khai trường, đồng thời xin ra tờ Tạp ChíDuy Tâm, chư Tôn Đức có lời khuyên cụ ông hãy hoãn ý định xuất gia để chạy vòng ngoài.  Cụ ông đi nhiều nơi kêu gọi, vận động các chùa hầu như khắp Nam Kỳ Lục Tỉnh, ra tới các chùa miền Trung, nên được nhiều chùa cùng nhiều đoàn thể biết tới việcthành lập Hội Lưỡng Xuyên Phật Họctại tỉnh nhà, cùng tham gia ủng hộ Hội được hoàn thành mỹ mãn.  Đến năm 1935, chùa Long Phước khai trường Phật Học Đường Lưỡng Xuyên, tiếp Tăng, độ chúng, đào tạo hàng loạt các vị Tăng tài, giới đức kiêm ưu, phụng sự Phật Pháp khắp nơi.  Phật Học Đường Lưỡng Xuyên là ngôi trường Phật Học đầu tiên trong lịch sử Phật Giáo miền Nam Việt Nam.

 

Cố Ni Sư có bốn anh em, chỉ CốNi Sư là con gái duy nhất nên ông bà rất cưng quý, giáo dục nghiêm túc.  Thuở ấy con gái ít được đi học, thế mà ông bà cũng cố gắng lo cho con mình được lên Sài Gòn theo học trường Nữ Học Đường.  Sau khi ra trường, Cố Ni Sư được học thêm các môn nữ công gia chánh khác để được đầy đủ Công Dung Ngôn Hạnh theo nề nếp khuôn mẫu truyền thống của một phụ nữ gia giáo Việt Nam từ ngàn xưa. 

 

Năm 17 tuổi (1925), vâng lịnh song thân, kết duyên với ông Dương Thế Trân (1903 - 1930), là cựu sinh viên École Normale Saigon, đang là Giáo Viên trường Tư Thục Nguyễn Văn Chưởng Trà Vinh.  Cuộc đời không mấy ai được hạnh phúc lâu dài.  Năm 1930, ông Dương Thế Trân bỗng lâm bạo bệnh qua đời, để lại hai con, một trai vừa lên ba tuổi, một gái mới tròn thôi nôi.Sớm gãy gánh cang thường, chưa mãn tang chồng, bỗng con gái lâm bịnh ngặt.  Chứng sốt tê liệt trẻ con thời đó chưa có thuốc trị, con trẻ đành phải chịu tật nguyền.Trước cảnh vô thường bịnh khổ mà không còn phương nào chữa trị được, âu chỉ còn có phép Phật nhiệm mầu mới mong nhờ hồng ân chư Phật gia hộ chữa lành bịnh tật cho con trẻ.

 

Chí đã quyết, nguyện cắt ái ly gia, Cố Ni Sư đành bỏ lại sau lưng cuộc sống yên lành nơi mái ấm với tình yêu thương của song thân và hai con thơ dại.  Quên tuổi đời son trẻ, một mình dấn thân vào nơi núi thẳm rừng sâu, cắt bỏ tóc xanh tầm Sư học Đạo, lập công bồi đức, tạo chút nhơn lành để phước ấm lại cho con. 

 Sa Di Ni 1941 Tân Tỵ

  1. II.               Thời kỳ Xuất Gia Tu Học

          Chí quyết tu hành

    

 

Chí đã quyết lên non cầu đạo (1935)

     Lòng nhiệt thành phước báo duyên may

          Núi Sam Châu Đốc vừa hay

Tới hang Bà Thợ gặp Thầy độ cho

     Phước Điền bậc thâm nho Trưởng Lão[1]

     Tổ Phi Lai chánh giáo chơn truyền

          Tam Quy Ngũ Giới chăm chuyên

Ngày lo công quả đêm thiền tịnh tu

 

     Trải ba năm công phu khổ hạnh

     Một ngày kia quảy gánh xuống triền

          Nhà dân xin nước giếng tuyền

Xảy bị chó cắn âu điềm chẳng may

     Về chùa vội bạch ngay Sư Phụ

     Thầy dạy rằng: Quả đủ cơ duyên

         Hãy mau xuống núi đi liền

Gặp thầy trị bịnh, bạn hiền đỡ nâng

     Căn lành sẵn có phước phần

     Ni Trường tạo dựng ích dân độ đời”

         Lạy Thầy từ tạ vâng lời

Hành trang thu xếp tạm rời sơn môn

 

Bậc xuất gia hằng luôn kham nhẫn

     Chí kiên trì tinh tấn tu hành

         Noi gương Phật Tổ độ sanh

Trên đường hóa đạo thực hành chí tu.

 

Ý thức được sự vô thường giả tạm của thế gian;nên sau đó nhiều lần suy nghĩ chính chắn, Cố Ni Sư đã tự cắt tóc mình cương quyết xả tục xuất gia, năm ấy Cố Ni Sư đã 25 tuổi đời.  Từ đấy, một mình một bóng, Cố Ni Sư vân du khắp nơi để tầm Sư học Đạo.  Trải qua ba năm trường, khắp miền Năm Non Bảy Núi của vùng Thất Sơn Linh Địa đều có dấu chân của Cố Ni Sư bước đến; nhưng vẫn chưa nơi nào hợp tâm thuận cảnh. 

 

Duyên may giong ruổi, một hôm đến chùa Phước Điền, hang Bà Thợ, Núi Sam, trước cảnh trí thiên nhiên thiền vị, Cố Ni Sư quyết định ở lại đây cầu Sư học Đạo.  Sau khi bái kiến Hòa Thượng Trụ Trì, được Thầy cho thế phát quy y.  Từ đó, ở lại chùa Phước Điền, trên kính Thầy, dưới nhường bạn, nhẫn nhục tu hành, công quả trong chùa hết sức cực nhọc, khi xuống triền gánh nước, lúc lên non kiếm củi, giã gạo nấu cơm, mọi việc trong ngoài hết sức lo toan.  Dù cực nhọc nhưng lúc nào Cố Ni Sư cũng chuyên cần tinh tấn.  Trải ba năm nương náu tại chùa Phước Điền, học xong bộ Tam Bảo chữ Nho, với tấm lòng chân thành học Đạo, Cố Ni Sư đã tự thân cầu học tại các Trường Hương, Trường Kỳ với các cụ Tổ như Tổ Khánh Anh, Tổ Huệ Quang, v.v... 

 

 

 Hình Lưu Niệm - Từ Vân Tự Mậu Thìn 1988

  1. III.           Quá trình Tu Học 1935 -1957

 

Năm 1935 – Ất Hợi:  Xả tục xuất gia, vân du khắp miền Năm Non Bảy Núi vùng Thất Sơn Châu Đốc, tầm Sư học Đạo.

 

Năm 1937 – Đinh Sửu:  Quy y thọ Ngũ Giới ngày Rằm tháng Bảy năm Đinh Sửu tại chùa Phước Điền núi Sam, tục gọi Chùa Hang Bà Thợ, Châu Đốc.

- Hòa Thượng Bổn Sư: thượng Huệ hạ Thiện, húy Hồng Chí.

 

Năm 1939 – Kỷ Mão:  Cùng Sư Bà thượng Diệu hạ Tấn húy Hồng Lầu nhập tự chùa Kim Sơn, Phú Nhuận, sáng lập Kim Sơn Phật Học Ni Trường.

                   Đèn Huệ Kim Sơn khêu tỏ rạng

                   Soi đường Ni Chúng rộng thênh thang

 

Năm 1941 – Tân Tỵ:  Thọ giới Sa Di Ni ngày mồng 10 tháng 3 năm Tân Tỵ (ngày 7 tháng 4 năm 1941) tại Đại Giới Đàn chùa Thái Nguyên, Thủ Đức.

- Hòa Thượng truyền giới húy Trường Bình, hiệu Vĩnh Hòa.

- Kiết hạ an cư tại chùa Bắc Kỳ Nghĩa Trang.

 

Năm 1942 – Nhâm Ngọ:  Chùa Kim Sơn Phú Nhuận lần đầu tiên khai Trường Hạ.

Cùng chư Ni chúng an cư tu học tại đây liên tục trong 3 năm.

 

Năm 1945 – Ất Dậu:  Nhập học, kiết hạ an cư tại chùa Long Hòa, Tiểu Cần, Trà Vinh.

- Trụ Trì: Tổ Huệ Quang.

 

Năm 1947 – Đinh Hợi:  Cùng chư Ni chúng chùa Kim Sơn nhập tự và trùng tu chùa Lý Dương Sanh, tục gọi chùa Bà Đầm, nay là chùa Từ Vân, Phú Nhuận.

Thường trú tại đây đến ngày viên tịch.

 

Năm 1949 – Kỷ Sửu:  Thọ Tỳ Kheo Ni Bồ Tát Giới ngày mồng 6 tháng 4 năm Kỷ Sửu tại Đại Giới Đàn chùa Giác Nguyên, Vĩnh Hội.

- Hòa Thượng Trụ Trì: Hành Trụ

- Hòa Thượng Ni truyền Giới: Đàm Thanh

Nhập học và kiết hạ an cư tại chùa Tăng Già, Vĩnh Hội.

 

Năm 1950 – Canh Dần:  Nhập chúng tu học và kiết hạ an cư tại chùa Huê Lâm, Chợ Lớn.

Rằm tháng 3 kiết đông tại chùa Hội Sơn, Gò Dưa, Thủ Đức.

Học xong Bộ Tứ Phần Luật do Hòa Thượng Ni Đàm Thanh, nay là Như Thanh, Trụ Trì chùa Huê Lâm, Chợ Lớn và chùa Hội Sơn, Thủ Đức, truyền giảng.

 

Năm 1952 – Nhâm Thìn:  Cầu Pháp với Tổ Khánh Anh, chùa Phước Hậu, Trà Ôn.  Được Tổ truyền trao Kệ Phái Chánh Pháp Nhãn Tạng.  Tổ đặt cho Pháp hiệu Giáo Ngôn, nay gọi là Như Ngôn.

 

Năm 1956 – Bính Thân:  Nhập học Trường Hương tại chùa Giác Nguyên, Vĩnh Hội.

- Hòa Thượng Trụ Trì: Hành Trụ

Kiết hạ an cư tại chùa Tăng Già, Vĩnh Hội.

 

Năm 1957 – Đinh Dậu:  Nhập chúng tu học tại Phật Học Ni Trường Dược Sư, Gia Định, ngày 12 tháng Tư.

Dự học Khóa Huấn Luyện Trụ Trì, khai giảng ngày 19 tháng Tư, mãn khóa ngày Tự Tứ Rằm tháng Bảy năm Đinh Dậu.

 

 

 

  1. IV.            Hành Đạo hóa đời

 

Từ đây Giới Phẩm đầy đủ, nội điển làu thông, Cố Ni Sư phát nguyện thọ trì Kinh Đại Thừa, chuyên niệm Đức Quán Thế Âm, thường khuyên dạy Phật tử làm lành lánh dữ, cúng dường Tam Bảo, phóng sanh, bố thí ...

 

Cuộc đời tu học của Cố Ni Sư thật rất cam go, gian khổ.  Khi mới xuất gia, ẩn chốn lâm sơn cùng cốc, suốt 6 năm trường tinh tu khổ hạnh.  Sau khi xuống núi gặp thầy, gặp bạn, nhập chúng tu học Chánh Pháp cho đến ngày viên tịch.  Trải 49 năm ở chốn Đại Già Lam Đạo Tràng nghiêm tịnh, trên nửa thế kỷ đời người tu hành thật dõng mãnh tinh tấn,Cố Ni Sư rất siêng tu cần học, tánh tình bộc trực, phóng khoáng hồn nhiên.  Trên đối với bậc Tôn Trưởng rất mực cung kính, dưới đối với bạn học đồng tu thật là ngay thảo, đối với chư Phật tử hết lòng thương xót, hay cứu giúp những người hoạn nạn khốn cùng; đối với con cháu trong gia đình quyến thuộc, thường hay răn dạy bỏ tâm kiêu xẻn, tu mười pháp lành, bố thí cúng dường, cung kính Tam Bảo.

 

Đối với Phật Pháp, Cố Ni Sư rất nhiệt thành lo Phật sự: từng là cột trụ của Cố Sư Bà Kim Sơn, sáng lập Kim Sơn Phật Học Ni Trường, đồng thời trợ lực Sư Trưởng lo Phật sự tại chùa Hội Sơn Thủ Đức, chùa Huê Lâm Chợ Lớn và xây cất chùa Phổ Đà Vũng Tàu đến khi hoàn mãn.

 

Nhiều lần Sư Trưởng dạy Cố Ni Sư ở lại chùa Phổ Đà, nhưng bổn nguyện Cố Ni Sư không rời bỏ huynh đệ, nên trở về hiệp lực cùng chư Ni chùa Kim Sơn trùng tu ngôi Tam Bảo Lý Dương Sanh Tự để làm Tổ Đình, nay là chùa Từ Vân.

 

Khi chư Ni ở Nam Bộ dự trù tìm mua đất để xây cất chùa Từ Nghiêm và thành lập Trụ Xứ Ni Bộ thì Cố Ni Sư đã sốt sắng đóng góp công sức chung lo.

 

Thấy đất nhà còn rộng, Cố Ni Sư về xin với thân mẫu cúng dường cho Ni Sư chùa Liên Quang xây cất nên Ni Tự tại tỉnh nhà, để chư Ni ở các nơi am cốc hẻo lánh có chỗ nương về tu học, kiết hạ an cư hoặc khi ốm đau được ở tại Châu Thành cho tiện việc thuốc thang điều trị.

 

Cũng trong thời gian rảnh rỗi còn lưu lại quê nhà, Cố Ni Sư đã dịch và tuyên giảng bộ Giới Bổn cho chư Ni không đủ phương tiện nhập chúng tu học ở các Đạo Tràng Ni Bộ.  Đồng thời có những năm, từ Rằm tháng Giêng đến Rằm tháng Tư, Cố Ni Sư về Trà Vinh cùng với Sư Bà Diệu Tài, cũng gọi là Bà Cô Trà Vinh, tu hạnh khất thực, cùng đi trì bình khắp các làng quê tại tỉnh nhà, nên chư Phật tử tại đây đều rất quý kỉnh.

 

Chư Tôn Hòa Thượng Tỉnh Hội Trà Vinh thấy Cố Ni Sư có khả năng gánh vác Phật sự nên gọi về cho thay thế Hòa Thượng Trụ Trì chùa Long Khánh đã quá già yếu, nhưng Cố Ni Sư đã từ chối, chỉ khăng khăng nương cùng chư huynh đệ chung lo Phật sự tại chùa Từ Vân.

 

Trong thời Pháp nạn (1963), đáp ứng lời kêu gọi của Giáo Hội cùng chư Tăng Ni Phật tử tranh đấu biểu tình tuyệt thực tại chùa Xá Lợi, Cố Ni Sư đã từng chung chịu sự đàn áp của cường quyền thuở đó.

 

Đối với đồng bào, Cố Ni Sư lo việc từ thiện, ủng hộ Viện Bảo Trợ Nhi Đồng tổ chức giữ trẻ cho đồng bào lao động nghèo ngay trong xóm chùa Bà Đầm.  Cố Ni Sư tham gia Hội Truyền Bá Quốc Ngữ để chống nạn mù chữ. Năm 1954-1955, mở lớp học ngay tại chùa, cùng với Sư Bà Như Trí (hiện nay Tọa Chủ chùa Thiên Long, Bình Thạnh) đứng dạy cho đồng bào biết đọc, biết viết.

 

Cố Ni Sư thật đã thi vi Bồ Tát Đạo, hợp với lý Phật Pháp bất ly thế gian, lợi hành đồng sự, giáo hóa độ sanh.

 

 

 

  1. V.               Dự tri thời chí

 

Tuổi đời chồng chất, tuổi Đạo càng cao, tự biết trước ngày ra đi vĩnh biệt, nên từ một năm trước Cố Ni Sư đã đem hết kinh sách của mình tu học tự bấy lâu chia tặng cho các vị Ni Sinh chùa Từ Vân, Từ Nghiêm, Kim Quang, Vạn Hạnh, v.v...  Ngoài ra nào tràng hạt, chuỗi tay, y áo, các vật dụng lớn nhỏ, Cố Ni Sư đều thu xếp, tùy vật tùy người trao tặng cho hết.  Đồ tẩn liệm cũng tự lo liệu đầy đủ, đến khi viên tịch chẳng có gì thiếu sót.

 

Vào cuối năm Mậu Thìn 1988, Cố Ni Sư lâm trọng bịnh, sau khi bình phục, Cố Ni Sư thường hay nói: “Tôi mộng thấy được về cảnh giới của tôi để vào trường thi, nhưng chưa tới kỳ, sang năm tôi sẽ được vào và thi đậu.”  Quả vậy, từ đầu Xuân Kỷ Tỵ 1989, các Phật tử về chùa Từ Vân, hễ ai đến thăm hỏi Cố Ni Sư, thì Cố Ni Sư thường hay nói lời từ biệt và khuyên nhắc Phật tử rán lo tu niệm.  Đến Lễ Phật Đản ngày Rằm tháng Tư, Cố Ni Sư từ giã Phật tử và nói: “Rằm này quý vị còn gặp tôi, chớ Rằm sau không còn gặp nữa đâu.”  Ai nghe cũng tưởng Cố Ni Sư nói chơi vậy thôi, vì thấy Cố Ni Sư tuy đã yếu nhưng hãy còn rất sáng suốt, ăn uống, ngủ nghỉ, ra vào rất tự nhiên.  Lễ Kiết Hạ An Cư hôm đó, Cố Ni Sư cũng lên chánh điện cùng chư đại chúng làm lễ như thường lệ.

 

Nào ngờ đâu, vào cuối tháng Tư, đêm ba mươi, sau thời khóa Lễ Sám Hối, Cố Ni Sư trở bịnh, làm mệt, phải đưa đi bịnh viện cấp cứu.  Ban đầu, Cố Ni Sư không chịu đi, sau vì ý kiến chung trong đại chúng cùng thân nhân của Cố Ni Sư nên Cố Ni Sư buộc lòng phải chịu.

 

 

 

  1. VI.           Thời kỳ viên tịch

 

Sau hai ngày ở bịnh viện, trải qua nhiều lần xét nghiệm càng làm cho bịnh tình thêm trầm trọng, Cố Ni Sư quyết đòi về chùa.  Đến sáng ngày mồng 3 tháng 5, bác sĩ mới chịu ký giấy cho xuất viện.

 

Với tâm trạng vô cùng hoan hỷ hiện rõ trên nét mặt, tuy rất mệt nhọc, Cố Ni Sư vẫn còn rất tỉnh táo lắng nghe lời thuyết giảng của Thầy Minh Thanh cùng những tiếng niệm Phật của chư đại chúng.  Hơi thở yếu dần, nét mặt bớt vẻ mệt nhọc, từ từ trở nên bình thản, đến 4 giờ chiều Cố Ni Sư nhẹ nhàng trút hơi thở cuối cùng thị tịch, có đủ chư Đại Đức Tăng Ni, huynh đệ thân thương tại chùa Từ Vân niệm Phật tiếp dẫn.  Hồi trống sấm chuyển vang rền, Phật tử các nơi tề tựu về hộ niệm.

 

Đến 10 giờ đêm, chư Ni nấu nước hoa tắm thay đồ cho Cố Ni Sư, thấy trên đỉnh đầu Cố Ni Sư hãy còn nóng ấm trong khi toàn thân đều giá lạnh.  Nét mặt như rất tươi tỉnh, miệng tựa mỉm cười dường như cùng chư đại chúng nói câu “Nhứt biệt trường từ”.

 

81 tuổi đời, 55 năm ở chốn Đạo Tràng, 49 Hạ lạp, Phật sự đã tròn, công viên quả mãn, nay Cố Ni Sư xả báo thân này, vãng sanh Lạc Quốc.

 

Cuộc đời tu học của Cố Ni Sư thật đầy đủ, Sự Lý viên dung, con đường hành Đạo của Cố Ni Sư đã trải qua thật đáng cho hàng Phật tử chúng ta nối bước tiến lên ...

 

Tấm gương cao khiết, bậc Thiền Ni

Trong sáng làu làu hạnh xả ly

Sứ mạng đã xong tròn bổn nguyện

Giữa mùa sen nở đã ra đi ...

 

Từ Vân đà vắng bóng                       

Đá ẩn ngọc Ma Ni

Bồ Tát Hạnh thi vi

Suốt đời tu lặng lẽ

 

Chăm khuyên già, dạy trẻ

Giữ quy giới tu hành

Biết lánh ác làm lành

Nay đã tròn bổn nguyện.

           

      Nhẹ nhàng buông xả báo thân

Trở về nước Phật trong ngần lưu ly !

      Nụ cười hoan hỉ từ bi

Hãy còn phảng phất dung nghi của Người ...

      Từ Vân hoa cỏ xinh tươi

Còn lưu vẻ ngọc, nét vui hiền hòa !

           

                             Ngọc ẩn đá riêng mình ngọc biết

                             Sen trong bùn một tiết thơm thanh

                                Tu hành chí quyết độ sanh

               Lòng Từ trải rộng duyên lành khắp gieo.


  Nam Mô Thường Tinh Tấn Bồ Tát Ma Ha Tát

 

 Từ Vân Tự, Phật lịch 2533, Kỷ Tỵ 1989
Viên Huệ Dương Chiêu Anh

    



[1] Hòa Thượng Huệ Thiện, húyHồng Chí, đệ tử của Sư Tổ Phi Lai, dòng Lâm Tế Chánh Tông.

Hình Lớp HuấnLuyện GiáoViên TBQN 1953Hình Lưu Niệm - Chú NguyệnHình Lưu Niệm - Nụ cười ...Hình Lưu Niệm - Phóng SanhÔng Trần Văn Giác -  Chùa Quán Sứ, Hà Nội (Thập Niên 1930)Ông Trần Văn Giác - Carte de la Presse 1935Ông Trần Văn Giác - Hội Lưỡng Xuyên Phật Học Trà Vinh (Thập Niên 1930)Ông Trần Văn Giác (Ông Ngoại của Chiêu Anh)Ông Trần Văn Giác cùng Tổ Huệ Quang - Hội Lưỡng Xuyên Phật Học Trà Vinh (Thập Niên 1930)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
23/04/2021(Xem: 4747)
Hoà thượng Thích Từ Hương thế danh là Nguyễn Mạnh Trừng. Sinh ngày 20 tháng 6 năm 1928 tại thôn Vĩnh An, xã Mỹ Phong, huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định.Trong một gia đình phú nông. Thân phụ là cụ ông Nguyễn Tiêm. Thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Chai pháp danh Nhật Cang. Từ lúc ra đời cho đến năm 1954, Hoà thượng ở tại quê nhà theo học tiểu học và sinh sống tại địa phương.
23/04/2021(Xem: 4559)
Hòa thượng Đạo hiệu Thích Thiện Duyên, thế danh Võ Đình Như, sinh ngày 20/10/1926 tại thôn Hội Vân, xã Cát Hiệp, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định. Ngài là con thứ 3 trong gia đình. Thân phụ và thân mẫu của Hòa thượng là cụ ông Võ Toản pháp danh Nhựt Toàn và cụ Bà Đặng Thị Chức pháp danh Diệu Phát. Gia đình Ngài có truyền thống Phật giáo thuần thành. Với túc duyên nhiều đời, từ nhỏ, Ngài thường được bà nội dẫn đến chùa làng tụng kinh niệm Phật. Gặp lúc Đại lão Hòa thượng Thích Thanh Hòa từ chùa Trà Can, Tháp Chàm – Phan Rang về tổ chức lễ truyền Tam Quy Ngũ giới tại chùa Tịnh An, Phù Cát, Bình Định, Ngài sớm thọ Tam quy Ngũ giới trong dịp này.
11/04/2021(Xem: 8917)
Nam Mô Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Kính bạch Chư Tôn Thiền Đức Tăng Ni, Kính thưa tất cả quý Phật tử trong và ngoài nước, Thiền viện Trúc Lâm Đại Đăng xin trân trọng kính báo: Thượng Toạ Thích Tuệ Giác, Hội trưởng Hội Thiền Học Việt Nam Hải Ngoại, Viện trưởng Tổ Đình Thiền viện Trúc Lâm Đại Đăng, Đã viên tịch vào lúc 4:30 chiều Thứ Bảy ngày 10 tháng 4 năm 2021 (nhằm 29 tháng 2 năm Tân Sửu) Tại Thiền viện Trúc Lâm Đại Đăng, Quận hạt San Diego, CA, Hoa Kỳ. Trụ thế 62 năm, 31 Hạ Lạp Chương trình Tang Lễ của Thượng toạ Thích Tuệ Giác sẽ được kính báo trong thời gian sớm nhất. Chúng con nhất tâm xin cung thỉnh Chư Tôn Thiền Đức và mời gọi quý Phật tử cùng chung lòng cầu nguyện. Thay mặt BTC Tang Lễ xin được trân trọng kính báo. Tỳ kheo Thích Tuệ Tỉnh
31/03/2021(Xem: 4638)
Trễ hẹn trong tang lễ, rồi cúng 21 ngày và 49 ngày cố nhạc sĩ Hằng Vang ( 1936 – 2021 ), một số Anh Chị em cựu huynh trưởng giữ đúng lời hứa, rất uy tín, lòng tự dăn lòng rằng nhất định sẽ họp mặt để cùng nhau thắp cho vị nhạc sĩ nén hương tưởng nhớ, tri ân những dòng nhạc mà phần lớn đã theo chân nhiều thế hệ Gia Đình Phật Tử ( GĐPT ) và các đoàn thể thanh thiếu niên Phật giáo, nối tiếp nhau cho đến tận hôm nay. Và ngày đó phải là ngày cúng chung thất 49 ngày, nhất định không hẹn xa xăm nửa. Sau khi loại trừ nhiều trở ngại, cộng vào nh74ng thuận duyên chung, tất cả đã chọn ngày chủ nhật 21/03/2021 9 nhằm ngày mùng 9 tháng hai năm Tân Sửu vừa rồi
10/03/2021(Xem: 4913)
Cố Hòa Thượng thế danh Đặng Hữu Tường, pháp húy Nguyên Phước, tự Quang Thể, hiệu Đạt Minh; nối pháp đời 44 dòng Lâm Tế, thế hệ thứ 10 pháp phái Liễu Quán. Ngài lâm thế ngày 19 tháng 9 năm Nhâm Tuất (1922) tại làng An Hải, quận III (nay là phường An Hải, quận Sơn Trà), thành phố Đà Nẵng; chánh quán làng Quảng Lăng, xã Điện Nam, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Thân phụ Ngài là cụ ông Đặng Văn Vịnh (tức Nuôi) và thân mẫu là cụ bà Lê Thị Ớt. Ngài là trưởng nam trong một gia đình có năm anh em gồm ba trai và hai gái. Năm lên 9 tuổi, thân phụ qua đời, từ đó mẫu thân một mình tần tảo nuôi con. Trong thời gian này, Ngài được mẫu thân gởi đến Thầy Tư Tri (Như Tín) – trụ trì chùa An Hải lúc bấy giờ – nhận cho nhập Chúng tu học.
10/03/2021(Xem: 7729)
Cư sĩ Quảng Hải Phan Trung Kiên sinh năm Nhâm Dần (1962) tại Phường Tân Thái, Quận 3, Đà Nẵng (nay là Phường Mân Thái), là người con thứ ba trong gia đình có 9 anh em (5 trai, 4 gái). Vượt biên cùng với Ba và 3 anh em trai vào tháng 6 năm 1981 và định cư đến Mỹ vào cuối tháng 3 năm 1982. Má và các em gái cùng em trai út vượt biên năm 1988 và cả gia đình sum họp tại Hoa Kỳ vào năm 1989.
01/03/2021(Xem: 26684)
Trang nhà Quảng Đức vừa nhận được tin buồn: Đức Đệ Ngũ Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Đại Lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ đã thuận thế vô thường, thâu thần viên tịch vào lúc 21 giờ 20 phút ngày Thứ Bảy 22/02/2020 nhằm ngày 29/01 Âm lịch năm Canh Tý, Phật lịch 2563 tại Chùa Từ Hiếu, Phường 1, Quận 8, Sài Gòn. Trụ thế: 93 năm. Chương trình tang lễ sẽ được công bố trong thời gian sớm nhất có thể. Chúng con thành kính nguyện cầu Đức Đại Lão Hòa Thượng Cao Đăng Phật Quốc và sớm tái sanh trở lại thế giới Ta Ba để tiếp tục công cuộc hoằng Pháp lợi sanh. Nam Mô Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật
23/02/2021(Xem: 4992)
Tin buồn Cư sĩ Đỗ Đình Đồng; Pháp danh: Chơn Trí đã an nhiên trút hơi thở tại Hoa Kỳ vào lúc 01 giờ 02 phút khuya ngày 17 tháng 2 năm 2021 (mồng 6 tháng giêng năm Tân Sửu). Hưởng thọ 76 xuân. Trong một cơn bạo bệnh, ông bị máu đông trong động mạch phổi. Bác sĩ cho ống thông vào để phá máu đông nhưng tim ông đã ngừng đập khiến ông phải thở bằng máy và đã an nhiên trút hơi thở cuối cùng sau một ngày một đêm trên máy thở. Ông ra đi đột ngột khi đang dịch dang dỡ một quyển sách khác về giáo lý đạo Phật. Ông thanh thản hồn nhiên trút hơi thở, không biểu hiện sự đau đớn, và có hiền thê, hiếu tử hiền tôn bên cạnh niệm Phật cầu nguyện.
03/02/2021(Xem: 19214)
Vừa qua nhóm ảnh Nhất Chi Mai thuộc tu viện Phước Hòa (Đồng Nai), được sự hướng dẫn của Thượng toạ Viện chủ đã đến Buôn Mê Thuột để quay những thước phim đầu tiên về nhạc sĩ Hằng Vang. Cùng với cố nhạc sĩ Lê Cao Phan, Bửu Bác... được xem như lớp tiền phong của dòng tân nhạc Phật giáo. Nhạc sĩ Hằng Vang tên thật là Nguyễn Đình Vang, sinh năm 1933 tại Huế. Trong hơn 60 năm sáng tác, ông có hàng trăm ca khúc về đề tài này, nổi bật nhất là ca khúc Ánh Đạo vàng (1958) đã thấm sâu vào lòng Phật tử suốt thời gian dài từ khi ra đời.
28/01/2021(Xem: 7252)
Hòa thượng họ Hồ, húy Đắc Kế, Pháp danh Nguyên Công, tự Đức Niệm, bút hiệu Thiền Đức, thuộc dòng Lâm Tế đời thứ bốn mươi bốn, sinh năm Đinh Sửu (1937) tại làng Thanh Lương, phủ Hòa Đa, tỉnh Bình Thuận, nay là xã Chí Công, huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận. Nhờ túc duyên tiền kiếp, nên mặc dù không ai khích lệ thúc đẩy, Ngài vẫn một mình cố công tìm đường hướng về với đạo lý giác ngộ. Khởi đầu, Ngài xin xuất gia với Hòa Thượng Thích Minh Đạo tại chùa Long Quang, Phan Rí năm 13 tuổi. Sau đó, trên đường tầm sư học đạo, Ngài cầu học với Hòa thượng Trí Thắng chùa Thiên Hưng và Hòa Thượng Viện chủ chùa Trùng Khánh ở Phan Rang, Hòa Thượng Thiện Hòa ở chùa Ấn Quang, Sàigòn, và Hòa Thượng Trí Thủ ở Phật Học Viện Hải Đức Nha Trang. Vào năm 1962, Ngài tốt nghiệp Cao Đẳng Phật giáo tại Phật Học Đường Nam Việt chùa Ấn Quang Sàigòn. Song song với Phật học, Ngài cũng c
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]