Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Một nén hương lòng

01/06/201617:52(Xem: 4830)
Một nén hương lòng

MỘT NÉN HƯƠNG LÒNG

Thành kính dâng Giác Linh Bổn Sư Trưởng Lão
Hòa Thượng thượng Chơn hạ Phát,
Phương Trượng Tổ Đình Long Tuyền, Hội An, tân viên tịch.



Người đi rũ bỏ sắc không

Lời kinh Bát Nhã rơi miền tịch dương

 

Từ phương trời Mỹ Quốc xa xôi chúng con hướng vọng về Tổ Đình Long Tuyền, Hội An đảnh lễ giác linh Thầy ba lạy, bái biệt Sư Phụ từ đây.  Khi nhận được tin Thầy viên tịch từ Thầy Đồng Khâm, con bàng hoàng sững sốt, tai nghe mà như không nghe, không tin vào đôi tai của mình. Đại sư huynh Giải Trọng mới vừa ra đi, nấm mộ còn chưa khô, nhang khói chưa tàn, thương nhớ chưa kịp nguôi, giờ lại đến lượt Sư Phụ. Cõi lòng chúng con làm sao không tan nát cho được, mới hơn có ba tháng mà chúng con phải chịu tới hai cái tang lớn, còn nỗi đau buồn nào hơn. Thầy ơi! Dẫu biết cuộc đời là vô thường, có hợp ắt phải có tan, nhưng trong con nỗi ngậm ngùi cứ vây quanh, đầu óc thì trống vắng không viết được chữ nào, chỉ biết tụng kinh cầu nguyện cho Giác linh Sư Phụ sớm được Cao Đăng Phật Quốc.

 

Hôm tháng tư vừa rồi chúng con về viếng chùa, lạy Giác linh Đại sư huynh, đảnh lễ và hầu chuyện cùng Sư Phụ, thấy người vẫn còn khỏe mạnh, nói chuyện với con thường lập lại tới lui những gì mình nói, nhưng đó là bệnh của những vị lớn tuổi. Còn sư huynh Như Phẩm thì lo điều khiển thợ xây cất, nới rộng trai đường ra phía sau, để mai sau Thầy về với Phật cũng có nơi để thờ phụng, quý huynh đệ đã chu toàn lo lắng, tháp thờ cũng đã xây xong. Giờ đây người rũ bỏ tấm thân tứ đại, nhẹ bước vân du, chốn tổ Long Tuyền vắng bóng bậc ân sư. Cội tùng đã từng tỏa bóng che chở đàn con trước phong ba bão tố, làm chổ nương tựa vững chắc cho hàng Phật Tử. Bậc long tượng một thời hiên ngang tiến bước, vượt bao chướng duyên nghịch cảnh, vổ về chăm sóc hàng hậu học, tất cả bây chừ thiếu vắng trống trơn hụt hẫng, để lại cõi lòng chúng con niềm đau nỗi thương nhớ vô biên.

 

Ôi! Bóng thời gian đò chiều đưa tiển, cõi sắc không thắm đượm một màu tang, niềm hịu quanh chừ dạo quanh lối mộng, buổi tiễn đưa thắm đượm cõi hương lòng, người bước đi rũ sạch chốn bụi trần, nghe đâu đây cung đàn réo rắc phút biệt ly, cho ngần ấy mai sau còn thương tiếc, lời kinh khuya đượm cả một trời không.

 

Con còn nhớ hình ảnh đầu tiên đầy ấn tượng, đó là vào ngày 31 tháng 8 năm 1969 và cũng là lần đầu tiên con trông thấy được hình bóng của Thầy. Từ chùa Long Tuyền, Hội An, Thầy về Niệm Phật Đường Mỹ An ở Đại Lộc quê con, để làm lễ truyền Tam quy  Ngũ giới. Nơi đây cũng là ngôi nhà của phụ mẫu chúng con, năm vừa rồi để cho chùa Mỹ An tạm mượn, vì ngôi chùa chánh ở trên đồi cao, chính quyền lúc bấy giờ sử dụng để làm căn cứ quân sự nên cấm người dân lai vãng. Dù lúc đó con chỉ mới được mười một tuổi, nhưng con vẫn còn nhớ hình bóng uy nghiêm của Thầy ngồi trên chiếc xe Jeep, do một thầy lái. Phật Tử chúng con sắp thành hai hàng, đứng hai bên đường để cung đón Thầy, lễ quy y hôm đó có rất đông Phật Tử đến quy y, cứ mỗi lần con nghĩ đến Thầy, thì hình ảnh ban đầu đó trong con lại có dịp trở về.

 

Năm 1972 chị Hạnh Tịnh dẫn con đi xuất gia, dù là đệ tử của Thầy, nhưng khi xuất gia con lại về chùa Phước Lâm. Thầy Phước Lâm thỉnh thoảng hay về quê để thăm phụ mẫu của Ngài, và Ngài thường ghé lại nơi Niệm Phật Đường để thăm phụ mẫu của con, có lẽ thường gặp Ngài nên thấy gần gũi, con muốn xuống chùa Phước Lâm để tu là vậy.

 

Hai năm sau vào năm 1974 nhân dịp chùa Long Tuyền tổ chức an cư, và có giới đàn, con về chùa được Thầy cho phép nhập chúng tu học từ đó. Chùa Long Tuyền còn là Phật Học Viện Quảng Nam, Thầy vừa là viện trưởng, và cũng là giáo thọ dạy cho chúng con học, lúc đó có quý chú từ Nha Trang ra tu học đông lắm, có khoảng năm mươi Tăng sinh. Con còn nhớ Sư Phụ dạy bộ Phật Học Phổ Thông, hình bóng tôn nghiêm và những lời dạy bảo của Thầy vẫn khắc ghi trong lòng chúng con. Lúc đó Thầy hay đề cập đến Thái Hư Đại Sư, một bậc thầy lớn của nhiều thế hệ, chủ trương cải cách Phật Giáo, chỉnh trang giáo lý, chỉnh trang giáo chế, chỉnh trang giáo sản. Trong phòng của Thầy có tủ sách, con thấy có bộ sách của ngài Thái Hư Đại Sư có tới mấy cuốn thật dày. Thầy rất uy nghiêm, hành trì giới luật, mỗi lần nghe bước chân Thầy đi xuống, chúng con đều phải đứng dậy, lúc đó làm gì cũng đều ngưng lại.

 

Năm 1975 do sự chuyển biến của đất nưóc, Phật Học Viện đành phải giải tán, vì không đủ lương thực để lo cho chúng, quý chú trở về lại nơi chùa Thầy Tổ. Chùa của mình giờ chỉ còn lại có mấy thầy trò, Thầy, hai sư huynh Thầy Giải Trọng, Thầy Như Phẩm, chú Như Dũng, chú Như Tường và con, có chú Tâm Kinh y chỉ với Thầy, còn có thêm chú Đồng Phương xin ở lại nữa. Chừng đó Thầy trò nương tựa bên nhau, rau muối tương gạo sống qua ngày. Có hôm chùa hết gạo Thầy dẫn con ra ngoài phố mua gạo nợ tiền, rồi chở về chùa để chúng có cơm ăn. Tối nào Thầy cũng nằm nơi chiếc ghế ngoài hiên cho mát, mở đài BBC để nghe tin tức thời sự.

 

Với chủ trương “một ngày không làm là một ngày không ăn” của tổ Bách Trượng, nhờ chùa sẵn có đất đai mấy Thầy trò cùng nhau ra đồng canh tác, sống bằng kinh tế tự túc. Trong vườn thì Thầy trồng rau xà lách, mỗi khi ăn nhổ xà lách vào trộn với chút dầu tí muối, vậy mà ăn ngon chi lạ. Lúc không có gì ăn ngoài tô canh, Thầy vào phòng lấy bịch vị tinh (bột ngọt) chuyền xuống cho chúng con bỏ một tí vào, thế là hôm ấy ăn thật là ngon, lúc đó bột ngọt quí hiếm lắm. Thầy làm lụng vất vả và cực khổ lắm, không đi cúng kiếng bao giờ, kinh tế chùa và lo cho chúng, tất cả đều đổ trên vai của Thầy.

 

Dù đi làm khổ cực nhưng mỗi bửa Thầy ăn cũng giống với chúng, cũng rau lang nấu canh, bầu ăn không hết thì phơi khô để dành, xào với chút dầu, với tương do chính tay Thầy tự làm, quanh đi quẩn lại ngày lại ngày, sáng trưa chiều cũng bấy nhiêu thứ. Đậu khuôn trở thành một thứ xa xí phẩm chỉ có ngày giổ Tổ chúng con mới thấy mặt mũi nó. Con còn nhớ những khi đi làm, đến nửa buổi làm đói bụng quá, Thầy đưa cho một ít tiền bảo chúng con đi mua bánh tráng về ăn. Lúc đó Thầy đâu có nhiều tiền mà đưa, chúng con chỉ mua được bánh tráng làm bằng bột sắn, chứ không đủ tiền để mua bánh tráng làm bằng bột gạo. Bánh tráng làm bằng bột sắn khi ăn có vị nhẩn nhẩn, dù vậy mấy Thầy trò cuốn bánh tráng với rau muống, chấm bằng nước tương do Thầy làm ra, thế mà ăn thật là ngon lành, con nhớ mãi mùi vị ấy đến tận hôm nay. Khi Thầy làm nước tương, làm gì có nhiều tiền để mua đậu nành chỉ mua một ít thôi, Thầy tự pha chế công thức, một đậu hai gạo, tức một ký đậu nành thì hai ký gạo. Nước tương Thầy làm ra chỉ thấy toàn gạo không thôi, còn đậu nành nó biến đi đâu mất tiêu, cực khổ như vậy nhưng mấy Thầy trò huynh đệ vẫn vui vẻ tu tập bên nhau.

 

ht thich chon phatĐầu năm 1976, nghe đâu trong Đại Tòng Lâm sắp mở khóa học, con xin Thầy vào đó để tu học, nhưng Thầy không cho và nói “chú vào trong Nam dễ hư lắm”, nhưng con vẫn cứ ra đi. Khoảng bốn giờ sáng con nhờ chú Như Dũng giữ hộ con chó mực để nó không sủa kẻo Thầy hay biết, rồi con nhờ chú Như Tường mở hộ cổng để con trốn Thầy đi. Viết những dòng nầy mà nước mắt con tuôn trào, như một lời sám hối muộn đến Thầy. Có lẽ trong mấy huynh đệ, con là người bướng bỉnh nhất và cũng là người đệ tử rời xa Thầy khi mới 17 tuổi.

 

Thầy ơi! giờ nầy Thầy nhẹ bước vân du, để lại cho chúng con niềm thương tiếc vô hạn, vì xa xôi cách trở không thể về bên Kim Quan Thầy cúi đầu đảnh lễ, con chỉ biết đốt nén hương lòng dâng lên Thầy, kính ngưỡng cầu Thầy mau trở lại cõi Ta Bà nầy, nơi có biết bao người mong chờ Thầy ra tay tế độ. Thầy ơi! nếu kiếp sau có duyên gặp lại con vẫn mong được làm đệ tử của Thầy.

 

Nam Mô Từ Lâm Tế Chánh Tông, đệ tứ thập thế, Long Tuyền Tổ Đình Phương Trượng, húy thượng Chơn hạ Phát, tự Long Tôn Hòa Thượng Giác Linh.

 

Khể thủ

Đệ tử Như Hùng

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/04/2013(Xem: 5422)
Hòa thượng pháp danh Trí Độ, hiệu Hồng Chân, thế danh Lê Kim Ba, sinh ngày 15 tháng 12 năm 1894 tại thôn Phổ Trạch, xã Kỳ Sơn, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định. Sinh ra trong một gia đình Nho học, lúc thiếu thời Ngài học chữ Nho và năm 18 tuổi học trường Sư phạm. Vì thế mà sở học rất uyên thâm, thêm lòng mến mộ đạo Phật, Ngài đi sâu vào nghiên cứu giáo lý và trở thành một vị học Phật lỗi lạc.
09/04/2013(Xem: 5860)
Hòa Thượng pháp danh Thích Tâm Thi, đạo hiệu Tuệ Tạng, thế danh Trần Thanh Thuyên, sinh năm Canh Dần (1889) tại làng Quần Phương Trung, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định. Thân phụ Ngài là ông Trần Tín tự Phúc Châu, thân mẫu là bà Vũ Thị Tú hiệu Diệu Hòa.
09/04/2013(Xem: 6890)
Hòa thượng Hộ Tông (1893-1981), Maha Thera Vansarakkhita, có thế danh là Lê Văn Giảng, sinhngày 15 tháng 10 năm 1893, tại làng Tân An, quận Tân Châu, tỉnh Châu Đốc. Ngài xuất thân trongmột gia đình trung lưu trí thức, thân phụ là ông Lê Văn Như, thân mẫu là bà Đinh Thị Giêng.
09/04/2013(Xem: 5857)
Hòa Thượng họ Nguyễn, Húy Văn Kính, pháp danh Tâm Như, tự Đạo Giám, pháp hiệu Thích Trí Thủ. Ngày sinh ngày 19 tháng 9 năm Kỷ Dậu, tức ngày 01-11-1909 trong một gia đình nho phong thanh bạch, tại làng Trung Kiên, tổng Bích Xa, phủ Triệu Phong (nay là xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong) tỉnh Quảng Trị. Thân phụ là cụ Nguyễn Hưng Nghĩa, thân mẫu là cụ Lê Thị Chiếu. Hai cụ là người rất kính tín Tam Bảo. Vì vậy, dù là con trai độc nhất trong gia đình, lúc 14 tuổi Ngài đã được song thân cho vào học kinh kệ ở chùa Hải Đức Huế.
09/04/2013(Xem: 10250)
Hòa thượng Thích Tâm Giác, thế danh là Trần Văn Mỹ, sinh năm 1917 tại tỉnh Nam Định, thân phụ là cụ ông Trần Văn Quý, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Suôi. Ngài là con trai thứ hai trong gia đình gồm hai trai một gái.
09/04/2013(Xem: 8276)
Hòa thượng húy Trần Thiện Hoa, pháp danh Thiện Hoa, hiệu Hoàn Tuyên, sanh ngày 7-8 năm Mậu Ngọ (1918), tại làng Tân Quy (sau đổi tên là An Phú Tân), quận Cầu Kè, tỉnh Cần Thơ (nay là tỉnh Trà Vinh). Hòa thượng là con út (thứ chín) trong gia đình. Thân phụ Hòa thượng huý Trần Văn Thê, pháp danh Thiện Huệ, thân mẫu húy Nguyễn Thị Sáu, pháp danh Diệu Tịnh. Toàn thể gia đình Hòa thượng đều quy y với tổ Chí Thiền chùa Phi Lai núi Voi, Châu Đốc. Pháp danh Thiện Hoa do Tổ đặt cho Hòa thượng.
09/04/2013(Xem: 13407)
Đại lão Hòa thượng Thích Huyền Quang thế danh là Lê Đình Nhàn, sinh năm Canh Thân, ngày 19-9-1920 (tức ngày mồng 8 tháng 8 năm Canh Thân), quê thôn Háo Đức, xã Nhơn An, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Thân phụ là cụ ông Lê Vỵ pháp danh Như Hương, thân mẫu là cụ bà Ngô Thị Tư pháp danh Như Tâm cùng ở làng Háo Đức.
09/04/2013(Xem: 5604)
Hòa Thượng THÍCH BẢO AN, húy thượng THỊ hạ HUỆ tự HẠNH GIẢI, thế danh LÊ BẢO AN, thuộc đơøi Lâm Tế Chánh Tông thứ Bốn mươi hai. Nguyên Hòa Thượng sanh năm 1914 (Giáp dần), tại thôn Tịnh Bình, xã Nhơn Hạnh, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Ðịnh, trong gia đình Lê gia thế phiệt, vốn dòng môn phong Nho giáo, đời đời thâm tín Tam Bảo, tôn sùng Ðạo Phật. Thân phụ là cụ ông LÊ PHÚNG, pháp danh NHƯ KINH, thân mẫu cụ bà TỪ THỊ HỮU, pháp danh NHƯ BẰNG, đức mẫu là cụ bà NGUYỄN THỊ CƠ, pháp danh NHƯ DUYÊN.
09/04/2013(Xem: 13388)
HT Thích Giác Trí, húy Nguyên Quán, phương trượng chùa Long Hoa, quận Phù Cát - Bình Định, tuổi Mậu Thìn 1928, năm nay 80 tuổi. Năm 13 tuổi Ngài xuất gia với Đại sư Huyền Giác, là Trụ trì tổ đình Tịnh Lâm Phù Cát. HT Mật Hiển 1907-1992 chùa Trúc Lâm, Huế, thọ giới Tỳ kheo tại đây năm 1935, giới đàn do HT Huyền Giác thành lập, thỉnh Tổ quốc sư Phước Huệ làm Đàn Đầu Hòa Thượng.
09/04/2013(Xem: 6389)
Bác Phạm Đăng Siêu sinh ngày 4 tháng 7 năm Nhâm tý (1912) tại Phú Hòa, kinh đô Phú Xuân, thành phố Huế. Nguyên quán thôn Tân Niên Đông, huyện Tân Hòa, phủ Tân Định, tỉnh Gò Công. Song thân Bác là cụ ông Phạm Đăng Nghiệp và cụ bà Tôn Nữ Thị Uyên, thuộc gia đình quý tộc giàu có.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567