- Thư mời viết bài về Nhị Vị Trưởng Lão Hòa Thượng
- Hành Trạng của Trưởng Lão HT Thích Huyền Tôn
- Chúc Mừng Đại Thọ HT Huyền Tôn (thơ)
- Kính dâng HT Thích Huyền Tôn
- Bút Mây Học Sĩ (thơ)
- Hình ảnh sinh hoạt của Hòa Thượng Tăng Giáo Trưởng
- Tuổi Hạc (thơ)
- Một đời hiến dâng (thơ)
- Ký Ức Thời Gian
- Kỷ niệm một lần đến thăm (thơ)
- Công Đức của HT Tăng Giáo Trưởng
- Ấn Tượng Cội Tùng (thơ)
- Việt Lịch Bảo Vương (thơ)
- Nhớ về Hòa Thượng Thích Huyền Tôn
- Bái bạch Lão ân sư (thơ)
- Niệm Ân Hòa Thượng
- Video: Ý Nghĩa về Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm
- Cây Cao Bóng Cả
- Lời nhắn gởi của HT đến hàng hậu học
- Lời dạy của Ôn
- Ôn Lăng Nghiêm Bảo Vương Tự
- Câu Đối Kính Cúng Dường Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Huyền Tôn
- Thạch Trụ Tòng Lâm (thơ)
- Nhành Dương Liễu PG Úc Châu
- Thầy là con thuyền Thanh lương
- Đôi lời bộc bạch kính dâng Ôn
- Hoài Niệm về Đấng Minh Sư
- Sư Phụ Huyền Tôn
- Hòa Thượng vui tánh
- Kính Mừng Khánh Tuế Hòa Thượng Tăng Giáo Trưởng thượng Huyền hạ Tôn
- Ngưỡng Nguyện
- Hòa Thượng Huyền Tôn, Sư Thúc của Tôi
- Tri Ân Nhị vị Trưởng lão
- Người viễn xứ (thơ)
- Đức Sáng Ngời (thơ)
- Một nhà Văn Hóa đa tài khả kính
- Một Đời Lão Trượng (thơ)
- Ân Đức của Trưởng Lão Hòa Thượng Bảo Vương
- Nhân duyên gặp Hòa Thượng
- Hơn 30 năm nhìn lại
- Lời Cẩn Bạch Tri Ân HT Thích Huyền Tôn
- Tâm Lượng Viên Dung (thơ)
- Hòa thượng đến mang niềm vui dương thế
- Kỷ Yếu Tri Ân Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Huyền Tôn
- Thông Tư Lễ Tri Ân Trưởng lão Hòa Thượng thượng Huyền hạ Tôn Tăng Giáo Trưởng Hội Đồng Giáo Phẩm Trung Ương.
- Cảm Tạ 42 Ngòi Bút Đạo “Hương Lòng Nghĩa Thiết
HÒA THƯỢNG HUYỀN TÔN, SƯ THÚC CỦA TÔI.
Học và nghiên cứu Kinh Thủ Lăng Nghiêm từ năm 17 tuổi tôi thấy nhiều khi tưởng như đã nắm bắt được Chân Tâm nhưng rồi sau khoảnh khắc đó, Chân Tâm lại vuột mất như những giọt nước rơi xuống kẽ tay. Đức Phật đã chỉ Tâm nhiều lần qua Kinh Thủ Lăng Nghiêm, người trì chú đọc kinh nghĩ mình đã đi gần đến và sống trong cảnh giới của Chân Tâm. Rút cục rồi đa số cũng trở về với cái tâm vô minh vọng động - Nghĩ cũng buồn! Nhưng đó là đời sống con người với kiếp nhân sinh đầy những nghịch cảnh luôn bị chi phối bởi duyên và nghiệp. Nhưng có nhiều lúc duyên và nghiệp lại đưa đẩy ta vào khoảng không gian và thời gian tràn đầy hạnh phúc.
“Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ
Vô duyên đối diện bất tương phùng”
Từ ngày có duyên được diện kiến Hòa thượng lần đầu cho đến nay tôi vẫn thường gọi Ngài bằng Thầy. Không phải tôi không thích gọi Ngài là Hòa thuợng nhưng tôi thấy chữ Thầy vẫn thân thương hơn, gần tôi hơn. Mỗi lần gọi Ngài bàng Thầy xưng con, tôi thấy mình nhỏ bé lại và cần được bảo bọc như đứa bé cần sự chăm sóc của mẹ. Thật là một cảm nghĩ ngây thơ của một người đã gần đến cái tuổi thất thập cổ lai hy như tôi. Nhưng đó là sự thật! Thầy gọi tôi là anh Hải, nhiều khi trong công việc Thầy gọi tôi là Ls. Hải. Gọi thế nào đi chăng nữa tôi cũng chỉ là Thiện Vân, pháp danh do Thầy truyền pháp đặt cho tôi trong buổi lễ Quy Y Tam Bảo ở Việt nam vào năm 1978 lúc Thầy còn trụ thế.
Khi định cư ở Melbourne lần viếng thăm Thầy Huyền Tôn lần đầu tại Melbourne cách đây 35 năm, tôi thấy Thầy còn trẻ, khoảng độ trên dưới 50 tuổi. Thầy hỏi tôi một cách đầm ấm: “Anh Hải quy y ở đâu? pháp danh là gì, quy y với Thầy nào?” tôi đáp ngay “Bạch Thầy, con quy y ở chùa Phổ Quang, Phú Nhuận, pháp danh là Thiện Vân và Thầy con là Thượng Tọa Thiện Thông”. Vào lúc đó, Thượng Tọa Thiện Thông đang Trụ trì chùa Phổ Quang. Thầy nhìn tôi, cười một cách thích thú: “Như vậy Thầy và anh Hải có bà con rồi đó, Thượng tọa Thiện Thông là Sư huynh của Thầy, tính thứ bậc thì thầy là Sư thúc của anh Hải. Thầy tiếp “Anh Hải có biết Thầy Thiện Thông giỏi pháp môn nào không?” Tôi đáp: “Thầy con thông thạo Mật Tông.” Thầy Huyền Tôn mỉm cười, một nụ cười rạng rỡ, Thầy nói “Ngoài pháp môn Tịnh Độ, Thầy cũng chuyên về Mật Tông”. À ra thế! lúc đó tôi mới hiểu rằng Thầy Thiện Thông truyền pháp cho tôi và Thầy Huyền Tôn có một liên hệ rất mật thiết trong Phật sự vì Thầy Huyền Tôn trước năm 1975 là Chánh Đại diện Tỉnh Hội Phật giáo tỉnh Gia Định nên Thầy biết rõ các vị tu sĩ Phật giáo thuộc tỉnh Gia Định nơi Thầy Thiện Thông làm Phật sự và Quý Thầy đều đã tu học và thông thạo Mật Giáo.
Tại Úc châu có lẽ Hòa thượng Huyền Tôn là một trong những vị tu sĩ Phật giáo tinh thông Hán học. Đa số Kinh điển Phật giáo đều được dịch ra tiếng Việt từ Hán tự. Để hoằng dương Phật Pháp, Ngài chuyên nghiên cứu và dịch thuật nhiều bộ sách và Kinh điển Phật giáo từ Hán tự ra chữ Việt từ năm 1965.
Tác phẩm đầu tay của Ngài là bản dịch Việt ngữ của Kinh Đại Báo Phụ Mẫu Trọng Ân, dịch năm 1965. Trong những tác phẩm Ngài đã viết hoặc dịch, tác phẩm chú Kinh Chú Mật Giáo, dịch năm 1994 và Du Già Diệm Khẩu Thí Thực Khoa Nghi, dịch năm 2006 là những tác phẩm dịch nổi tiếng của Ngài. Theo tôi biết thì không những ở hải ngoại mà ngay cả các tu sĩ Phật giáo và Phật tử trong nước cũng nghiên cứu và đánh giá cao các tác phẩm dịch này. Một tác phẩm lớn Ngài dự định xuất bản trong tương lai là quyển Năm Ngàn Năm Việt Lịch.
Trong những kỷ niệm với Hòa thượng Huyền Tôn, tôi nhớ nhất là vào một lần thăm Thầy, Thầy đã tự tay nấu cơm và sửa soạn bữa ăn trưa cho Thầy và tôi tại Bảo Vương Tự. Vừa nấu cơm và làm món đậu phụ, Thầy nói “Người ta thường nghĩ là quý Thầy không biết nấu cơm, làm thức ăn nhưng thật ra là quý Thầy cũng như các anh chị cũng đều biết tự nấu nướng cả, anh cứ thử ăn món cặn đậu phụ nầy Thầy làm xem có ngon không?
Quả thật, cơm và thức ăn do Hòa thượng Huyền Tôn nấu ngon thật! Ngày hôm đó lòng tôi thấy lâng lâng và cảm thật rất vui khi đã khám phá ra một khía cạnh khác của vị Hòa Thượng mà một số Phật tử nhận xét là khó tính, phải cẩn thận khi đàm đạo với Thầy.
Một kỷ niệm khác khó quên với Thầy là ngồi cùng xe 4WD để Thầy lái ở City. Thầy lúc đó cũng đã ngoài 80 tuổi nhưng Thầy xử dụng xe rất nhanh nhẹn và thành thạo như người còn trẻ. Thật khó mà tin được điều trên nếu không thấy tận mắt Thầy lái xe trên đường phố đông người. Tôi mừng vì thấy Thầy còn khoẻ để hướng dẫn Phật tử và phục vụ Đạo pháp. Tôi nghĩ đây cũng là phúc đức được hưởng của người Phật tử tại Úc châu.
Trong một lần vấn an Thầy và thấy Thầy không khoẻ, tôi cảm thấy lòng mình chùng xuống khi được Thầy tâm sự, khi đó đôi mắt Thầy trở nên xa vắng, những nét buồn hiện lên mặt Thầy. Với giọng trầm trầm, Thầy nói “Anh Hải không biết đâu, Thầy chỉ muốn sau này”, Thầy ngừng lại một chút, “Thầy được làm một tiểu đồng theo hầu Phật Quán Thế Âm là Thầy cảm thấy thật hạnh phúc nhất trên đời rồi.” Thật là trùng hợp, Thầy cũng muốn mình nhỏ bé lại để theo hầu Phật Bà trong một kiếp vị lai.
Có một lần, trong lúc đàm đạo, tôi hỏi Thầy: “Xin Thầy chỉ cho con biết Tâm Phật là gì ?” Ngài cười hiền hậu: “Anh không biết thật sao, Tâm Phật là cái Tâm bình thường”. Tôi không hiểu và vấn lại Thầy: “Thế cái Tâm bình thường là gì hả Thầy, xin Thầy chỉ cho con biết”. Thầy Huyền Tôn cười lớn hơn, Ngài nói: “Là làm và vui với những công việc bình thường hàng ngày mà thôi, không có chi lạ cả. Anh Hải có biết câu “Bình thường Tâm thị Đạo không ?” Tôi trả lời Thầy thật nhỏ “Dạ biết”.
Thời gian trôi qua, tôi đã hiểu một điều thật giản dị nhưng cũng thật đúng “Sống vui với những công việc bình thường là hạnh phúc nhất vì những việc, ước muốn có hoặc đã làm được, mà ta tưởng là to tát, quan trọng trên đời này thật ra cũng chỉ là những việc bình thường mà thôi”.
Nhờ Ngài Huyền Tôn chỉ dạy, tôi đã và đang sống với cái Tâm bình thường và đó là điều tôi cảm thấy an lạc và hạnh phúc.
Melbourne, Mùa Thu Bính Thân, tháng 4 năm 2016
Ls. Thiện Vân – Nguyễn Tân Hải