Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Mạng Đế Vương

10/03/201610:09(Xem: 8627)
Mạng Đế Vương



MẠNG ĐẾ VƯƠNG

 

Là người cùng dòng họ với Hòa thượng Phương trượng Pháp Hoa, từ nhỏ tôi được nghe kể nhiều những chuyện ngày xưa của Ông Bà, Thầy Tổ mình để lại, trong đó có Hòa Thượng. Nay nhân dịp được đóng góp bài vở cho kỷ yếu, Viên Trí xin ghi lại vài ký ức còn sót lại từ thời thơ ấu.

 

Khi còn hành điệu tại Tổ đình Chúc Thánh, cách đây cũng gần 30 năm, khi đó Hòa thượng Bổn Sư của tôi là HT Thích Trí Nhãn còn sanh tiền (tức Đại Sư huynh của HT Thích Như Huệ), Ngài thường hay nói : "Thầy Như Huệ có mạng đế vương, lúc nào, ở đâu, Thầy cũng luôn là người lãnh đạo Giáo Hội". Hồi đó tôi chỉ nghe như một đứa trẻ ngây ngô vậy thôi. Nhưng khi lớn lên mình mới thấy cái tình, và có một chút tự hào của vị Đại Sư huynh dành cho người Sư đệ.

 

Hòa thượng sanh năm 1933, trong một gia đình ảnh hưởng rất nặng Nho giáo, và sùng kính Tam Bảo. Thân phụ Hòa Thượng, Cụ ông Phạm Kim Cái, là một thầy thuốc Bắc nổi tiếng trong vùng (phường Cẩm Phô, Hội An) mà người trong xóm thường gọi là thầy Mười. Ông cụ có năm người con: Người con đầu Bà Phạm Thị Ty, kế đến Ông Phạm Kim Đồng, Phạm Kim Hiệp, Phạm Kim Tiền, và Hòa thượng là người con trai út, thứ sáu trong gia đình, Phạm Kim Lai. Trong các anh chị em thì có chị Hai, Phạm Thị Ty mất sớm. Nghe ông Nội (Ông Phạm Kim Hiệp) kể lại Bà Phạm Thị Ty tuy còn trẻ tuổi nhưng đã thành thạo nghề chẩn mạch bốc thuốc cho bịnh nhân. Riêng Hòa Thượng là người nhỏ tuổi nhất, nên được Thân phụ giao cho các anh Đồng, Hiệp dạy chữ Nho từ các sách Tam Tự Kinh, Ngũ Thiên Tự, Tam Thiên Tự, Minh Tâm Bửu Giám. Lúc bấy giờ chỉ học theo từng chữ một, như: Thiên trời, địa đất, cử cất, tồn còn..... Theo lời Hòa thượng kể: Cũng nhờ học những chữ Nho đơn sơ về ngữ nghĩa như vậy mà sau này Hòa thượng đã có cơ hội học nhanh hơn những bài kinh, luật của Phật khi đã xuất gia tu học.

 

Được nhân duyên gia đình ở cạnh chùa Viên Giác, Thân phụ thường hay qua lại trông nom chùa. Chùa Viên Giác khi đó chỉ là ngôi chùa làng, chưa có Thầy Trụ Trì, nên làng giao cho gia đình điều hành mọi Phật sự. Tất cả gia đình lớn nhỏ đều ra quy y với Hòa thượng Tăng Cang Thích Thiện Quả, tại Tổ Đình Chúc Thánh. Do những túc duyên đó, nên mới 8 tuổi Hòa thượng đã xin ra ở tập sự tại Chúc Thánh. Lên 11 tuổi thì Mẹ của Ngài mất sau một cơn bịnh. Nhìn thấy cảnh ân ái chia lìa đau khổ, vô thường giả tạm, nên đã thôi thúc ý thức một chú bé mới 11 tuổi hướng đến con đường xuất gia tu học càng mạnh hơn. Sau thời gian tập sự, lúc 12 tuổi, Hòa thượng đã được Thầy Bổn Sư chính thức cho xuống tóc, làm chúng xuất gia thường trụ trong Tổ đình. Khi vào Tổ đình xuất gia, Ngài cũng là một đệ tử gần như nhỏ nhất trong các vị đệ tử của Bổn Sư, nên Bổn Sư chọn Ngài làm thị giả. Nhờ được làm thị giả, sớm chiều thân cận qua thân giáo, ý giáo, khẩu giáo của Bổn Sư, đã ảnh hưởng đến tâm hồn trẻ của chú điệu Như Huệ lúc bấy giờ, vì thế mà Ngài trở nên rất hoàn chỉnh về oai nghi tế hạnh của người xuất gia.

 

Khi trưởng thành, Hòa thượng được Bổn Sư cho ra Huế học, sau đó thì được HT Trí Hữu từ Sài Gòn về giới thiệu vào học tại Phật học đường Ấn Quang. Cũng xin kể thêm rằng, khi đó Hòa thượng đi vào Sài Gòn bằng tàu thủy, khoảng cách một ngàn cây số, chắc cũng phải mất gần một tuần lễ mới đến nơi.  Hòa thượng theo học với các vị Cao Tăng lừng danh như HT Thiện Hoa, HT Thiện Hòa, Thiền Sư Nhất Hạnh, giáo sư Cao Hữu Đính....Học cùng lớp với Ngài lúc đó các vị như HT Thanh Từ, HT Huyền Vi, HT Tịnh Hạnh.... Sẵn có căn tánh bẩm sinh, và tu học rất tinh tấn, nên sau khi ra trường, Hòa thượng đã được HT Thích Trí Quang, HT Thích Thiện Minh cử đi hoằng Pháp khắp nơi từ miền Trung đến Miền Nam, từ thôn quê đến thành thị. Nhờ có giọng nói thanh cao, rõ ràng của giọng Quảng Nam mạnh mẽ cùng pha trộn một chút miền Nam mềm mại, nên Hòa thượng đã phương tiện diễn bày Phật Pháp rất thu hút người nghe. Nhất là thời kỳ chiến tranh, Phật giáo bị đàn áp, kỳ thị, nên những buổi diễn thuyết cho quần chúng hiểu được Phật Pháp, hiểu được sự công bằng tôn giáo, tín ngưỡng để bảo vệ Chánh pháp là rất quan trọng. Sau khi được thuyên chuyển công tác Phật sự từ Kon Tum về Quảng Nam để đảm nhận những chức vụ quan trọng trong Phật giáo tỉnh nhà (xin đọc tiểu sử), Hòa thượng cùng với các vị HT Như Vạn, HT Long Trí, HT Chơn Phát hợp lực với nhau sinh hoạt Phật sự một cách rất thành công và hợp ý nhau. Cũng theo lời Hòa thượng kể: Đi cúng, đi thuyết Pháp, đi đưa đón các bậc Tôn Túc từ xa đến thăm, đi cứu trợ... đều có bốn anh em đi cùng. Cho nên lúc bấy giờ mọi người thường đặt cho cái tên của 4 vị này là "Quảng Nam Tứ Trụ" tức là như bốn cây trụ cột để chống đỡ ngôi nhà Giáo Hội. Quảng Nam là một tỉnh có nhiều huyện ở những vùng núi xa xôi như Tý, Xé, Dùi Chiên, Đèo Le, Thạch Bích... là những thôn huyện ngăn sông cách đò nhất. Vào những mùa Đông, giá lạnh, có lúc Phật sự cần phải đi, "Tứ Trụ" này đạp xe đạp suốt cả 2 ngày trời mới đến. Trong Bốn vị chỉ có HT Chơn Phát là không biết đi đạp xe, nhưng Ngài lại là người to lớn, nặng nhất trong nhóm, cho nên ba anh em kia phải thay phiên nhau đèo Ngài ngồi phía sau. Có những chuyến đi trong thời tiết quá khắc nghiệt, khi đến nơi cả bốn anh em đều bị bịnh và mệt, nhờ Phật tử cạo gió xong rồi về, mệt quá không thuyết giảng được gì cả.

 

Trong "Tứ Trụ" thì HT Thích Như Vạn là người Pháp hữu có nhiều kỷ niệm nhất với HT Thích Như Huệ. HT Như Vạn xuất gia trễ hơn HT Như Huệ, nhưng tuổi lớn hơn, nên HT Như Huệ cũng xem như là Sư huynh. Huynh đệ có sự nhường nhịn và giúp đỡ với nhau như hai cánh tay trên một cơ thể, người này ngã, người kia nâng đỡ. Nhưng không may, sau năm 1975, HT Như Vạn vì một biến cố qua đời, nên HT Như Huệ thật vô cùng buồn bã, mất mát. Quý Thầy lúc đó kể là HT Như Huệ khóc HT Như Vạn như là người con mất mẹ, như Ngài A Nan khóc khi Phật Niết Bàn. Phần thì vận nước biến chuyển, phần thì Huynh đệ cách biệt, chia lìa, nên Hòa thượng đã rời bỏ miền Trung với biết bao kỷ niệm thân thương của một thời thơ ấu, rồi đến một thời hào hùng lãnh đạo và tranh đấu cho sự sống còn của Phật giáo, Ngài vào miền Nam một thời gian mà nỗi ray rứt trong lòng cũng không nguôi, rồi Ngài lại theo những dòng người ra đi vượt biên, và cuối cùng Ngài định cư tại Nam Úc.


"Quảng Nam Tứ Trụ" tức là như bốn cây trụ cột để chống đỡ ngôi nhà Giáo Hội.

HT Thich Nhu Van
1/ HT Thích Như Vạn, Phó Đại Diện, kiêm Đặc Ủy Cư sĩ GHPGVNTN tỉnh Quảng Nam,

Trụ Trì Tổ đình Phước Lâm, Thầy Bổn Sư của cố HT Thích Hạnh Tuấn (Trụ Trì Chùa Trúc Lâm, Chicago, Hoa Kỳ)

HT Thich Long Tri
2/ HT Thích Long Trí, Nguyên Phó Nội Vụ, kiêm Đặc Ủy Thanh Niên Tỉnh Giáo Hội Phật Giáo Quảng Nam,

Trụ Trì chùa Viên Giác, Quảng Nam, đệ tử của Ngài có HT Thích Tâm Thanh (một Giảng sư nổi tiếng) và HT Thích Như Điển (Phương trượng Chùa Viên Giác, Đức Quốc, là Đệ Nhị Chủ Tịch HĐĐH GHPGVNTN Âu Châu hiện nay).

HT Thich Chon Phat
3/ HT Thích Chân Phát, Nguyên Đặc Ủy Tăng Sự GHPGVNTN tỉnh Quảng Nam, Trụ Trì chùa Long Tuyền,

(một thắng cảnh của Phố cổ Hội An) và là Giám đốc một Phật Học Viện đầu tiên của Quảng Nam trước 1975.

HT Thich Nhu Hue
4/ HT Thích Như Huệ, lãnh đạo PG Úc Châu trong 35 năm qua (xem bài viết khác)

Ngài từng là Chánh Đại Diện GHPGVNTN tỉnh Quảng Nam, Giám Đốc Trường Bồ Đề Hội An

và xây dựng thành công nhiều công trình cho Phật giáo tỉnh nhà.


Su ong Nhu Hue-Thay Vien TriSu ong Nhu Hue-Thay Vien Tri-2

Su ong Nhu Hue-Thay Vien Tri-3
Tác giả Thích Viên Trí & Sư Ông Như Huệ



Hòa thượng thường hay kể, khi ra đi trên chiếc thuyền mỏng manh, lênh đênh nhiều ngày trên biển, Ngài có ba nguyện ước nếu được đi đến bất cứ nơi nào thì: Một là sẽ xây dựng một đạo tràng cho Phật tử tu học, hai là xây dựng một tượng đài Quán Âm lộ thiên, ba là chiêm bái những thánh tích Phật giáo tại Ấn Độ. Những ước nguyện đó đối với hôm nay thì chắc không có gì khó, nhưng trong lúc khó khăn thời đó, thức ăn không có, tương lai mờ mịt, cái sống và chết gần kề thì bất cứ một ước nguyện gì cũng có giá trị và cao cả. Thật vậy, khi qua Úc, không những Ngài đã hoàn thành những ước nguyện năm xưa, mà Ngài còn cùng chung sức với chư Tôn Đức tại Úc Châu xây dựng Giáo Hội. Ngài đã từng là Phó Viện Trưởng Viện Hoằng Đạo, kiêm Tổng Vụ Trưởng Tổng vụ Hoằng Pháp, sau đó Ngài làm Hội Chủ Giáo Hội PGVNTN Hải Ngoại tại Úc Đại Lợi và Tân Tây Lan trong suốt một chặng đường dài 4 nhiệm kỳ - 16 năm. Nhờ vào đức độ và kinh nghiệm, Hòa thượng đã tạo cho Phật Giáo Việt Nam tại Úc Châu ngày càng lớn mạnh, Tăng, Ni hòa hợp.

Nếu quý vị đọc tiểu sử của Ngài sẽ thấy một cuộc đời, một hành trạng thật nhiều thăng trầm với bao phong sương tuế nguyệt, nhưng vẫn vươn lên và thành công với bản lãnh tài ba, đức độ của mình. Đúng như lời Sư phụ của mình đã từng nói "Thầy Như Huệ có mạng đế vương" thật là không sai.

 

Viết tại Chùa Pháp Hoa, Nam Úc, 1/3/2016

Thích Viên Trí (Hạnh Thiện)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
30/05/2012(Xem: 7655)
Tín Nghĩa tôi đến định cư Hoa Kỳ vào ngày 19 tháng 09 năm 1979, do nhị vị Hòa thượng Thích Thiên Ân và Hòa thượng Thích Mãn Giác bảo lãnh từ trại tỵ nạn Hongkong. Ngồi tính sổ thời gian thì cũng đã gỡ gần ba chục cuốn lịch. Giá như thời gian này mà ở trong tù thì cũng mục xương và chẳng bao giờ được thấy ánh sáng của thiên nhiên.
27/05/2012(Xem: 18499)
Tác phẩm Trí Quang Tự Truyện bản pdf và bài viết "Đọc “Trí Quang Tự Truyện” của Thầy Thích Trí Quang" của Trần Bình Nam
15/05/2012(Xem: 5234)
Trong đạo lập thân của người xưa – lập công, lập đức, lập ngôn– thì lập ngôn thường được cho là quan trọng nhất, vì đó là phần “hình nhi thượng”, là tinh hoa tư tưởng cá biệt của một dòng đời mang tính truyền thừa lâu dài và sâu xa cho hậu thế. Người đem hết năng lực tinh thần và tri thức của đời mình để lập ngôn thì thành nhà tư tưởng, triết gia. Người đem chất liệu đời mình để viết lại thì thành tác giả tự truyện, hồi ký.
09/05/2012(Xem: 7227)
Sự xuất hiện của Tổ sư Liễu Quán (1667-1742) như là một Bồ tát bổ xứ, thực hiện sứ mệnh lịch sử: Không chỉ duy trì và phát triển mạch sống Phật giáo Việt Nam giữa bối cảnh xã hội tối tăm, Phật pháp suy đồi mà còn thể hiện sự xả thân vì đạo; lập thảo am, ăn rong, uống nước suối, hơn mười năm tham cứu công án, tu hành đắc đạo.
28/04/2012(Xem: 4337)
Nhà văn cư sĩ Huỳnh Trung Chánh, còn có bút hiệu Hư Thân, sanh năm 1939 tại Trà Vinh, quê nội của ông. Suốt quảng đời niên thiếu ông sống nơi quê ngoại tại Cao Lãnh, tỉnh Sa-Đéc, Nam Việt Nam. - Tốt nghiệp Cử nhân Luật Khoa( 1961 ), Đại Học Luật Khoa Saigon. - Tốt nghiệp Cử nhân Phật Học (1967), Phân Khoa Phật Học và Triết Học Đông Phương, Viện Đại Học Vạn Hạnh, Saigon. Là một công chức dưới thời Việt Nam Cộng Hoà, ông đã nổi tiếng thanh liêm, chánh trực và hết lòng dấn thân để phục vụ đại đa số dân chúng Việt Nam theo hạnh Bồ Tát của Phật giáo. Ông đã từng giữ các chức vụ sau đây: - Lục sự tại Toà Án Saigon và Long An (1960 – 1962). - Chuyên viên nghiên cứu tại Phủ Tổng Thống (1962 – 1964). - Thanh Tra Lao Động tại Bộ Lao Động (1964 – 1965). - Dự Thẩm tại Toà Sơ Thẩm An Giang (1965 - 1966). - Chánh Án tại Toà Sơ Thẩm Kiên Giang (1966 – 1969) và Toà Án Long An (1969 – 1971). - Dân Biểu Quốc Hội VNCH tại Thị Xả Rạch Giá (1
26/04/2012(Xem: 17066)
Mùa Phật Đản 1963, có máu, lửa, nước mắt và xương thịt của vô số người con Phật ngã xuống. Nhưng từ trong đó lại bùng lên ngọn lửa Bi Hùng Lực của Bồ Tát Thích Quảng Đức
20/04/2012(Xem: 8156)
Hòa thượng Thích Thiên Ân, thế danh Đoàn Văn An, sinh ngày 22 tháng 9 năm Ất Sửu 1925, tại làng An Truyền, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên. Thân phụ của Ngài là Đoàn Mễ, sau xuất gia là Thượng tọa Thích Tiêu Diêu một bậc tử đạo Vị pháp thiêu thân, thân mẫu là một tín nữ chuyên lo công quả ở chùa Báo Quốc và tu viện Quảng Hương Già Lam, Ngài là con trai thứ trong một gia đình có 4 anh em. Ngài xuất thân trong một gia đình thế gia vọng tộc, có truyền thống kính tin Phật pháp lâu đời. Nhờ duyên gần gũi Tam bảo từ thuở nhỏ, Ngài đã sớm mến cảnh thiền môn với tiếng kệ câu kinh, nên năm lên 10 tuổi (1935), Ngài theo bước phụ thân xin xuất gia đầu Phật tại chùa Báo Quốc, làm đệ tử của Hòa thượng Phước Hậu, được Bổn sư ban pháp danh là Thiên Ân, Ngài tinh tấn chấp tác, học tập thiền môn qui tắc, hầu cận sư trưởng. Năm Tân Tỵ 1941, khi được 16 tuổi, Ngài được Bổn sư cho thọ giới Sa di tại giới đàn chùa Quốc Ân – Huế, do Hòa thượng Đắc Quang làm Đường đầu truyền giới.
08/04/2012(Xem: 4625)
Hòa thượng thế danh Đoàn Thảo, sinh ngày 10 tháng Giêng năm Kỷ Dậu (1909), niên hiệu Duy Tân năm thứ 3 trong một gia đình nhiều đời theo Phật tại xứ Đồng Nà, tổng Phú Triêm Hạ, xã Thanh Hà, huyện Diên Phước, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam (Nay là thôn Đồng Nà, xã Cẩm Hà, thị xã Hội An, tỉnh Quảng Nam). Thân phụ là cụ ông Đoàn Văn Nhơn pháp danh Chơn Quang, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Có. Gia đình Ngài gần chùa Vạn Đức, lại thêm cụ thân sinh là tín đồ thuần thành của chùa, nên từ thuở nhỏ, Ngài thường theo cha đến chùa hàng đêm tụng kinh niệm Phật. Từ đó, chủng tử Bồ Đề lớn dần trong tâm và Ngài tỏ ra những biểu hiện rất có căn duyên với cửa Không môn của nhà Phật.
31/03/2012(Xem: 5391)
Hòa thượng thế danh Dương Đức Thanh, tự Liễu, pháp danh Như Nhàn, tự Giải Lạc, hiệu Trí Giác, nối pháp đời thứ 41 dòng Lâm Tế, thế hệ thứ 8 pháp phái Chúc Thánh. Ngài sinh năm Ất Mão (1915) tại làng Cẩm Văn, huyện Điện Bàn tỉnh Quảng Nam, trong một gia đình nhiều đời kính tín Tam Bảo. Thân phụ là cụ ông Dương Đức Giới pháp danh Chương Đồ, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Phụng pháp danh Chơn Loan. Năm lên 3 tuổi, thân phụ Ngài qua đời, thân mẫu tảo tần nuôi con và cho Ngài theo học chữ Nho với các cụ đồ trong làng, được 5 năm mới chuyển sang học Việt văn.
23/03/2012(Xem: 5055)
Đức Đại Lão Hòa Thượng Chánh Thư Ký Xử Lý Viện Tăng Thống GHPGVNTN là thế hệ thứ 8 của phái Thiền Thiệt Diệu Liễu Quán, Pháp danh Trừng Nguyên, Hiệu Đôn Hậu. Xuất gia và thọ cụ túc với Hòa Thượng Bổn sư là Tổ Tâm Tịnh, khai sơn chùa Tây Thiên Huế, sau các Pháp huynh là quý Hòa Thượng Giác Nguyên, Giác Viên, Giác Tiên, Giác Nhiên...
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567