Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Ký Ức Thời Gian

08/03/201617:00(Xem: 5518)
Ký Ức Thời Gian

1-HT-HuyenTon
Ký Ức Thời Gian

Kính dâng Hòa Thượng Tăng Giáo Trưởng

 

 

Từ trại tỵ nạn Paula Bidong, Malaysia, tôi đến Úc vào ngày 6/2/1987 qua sự bảo lãnh của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Úc Đại Lợi và Tân Tây Lan, văn phòng GH đặt tại Chùa Phước Huệ cũ, số 31 Landon St, FairFlied.

 

Tại đây tôi được xếp ở chung với Đại Đức Thích Minh Lâm, Đại Đức Thích Thiện Từ...chú Phước Minh, chú Phước Tấn, Cô Phước Tường, Phước Đạt, và Ưu Bà Di Tâm Lạc. Đến tháng 4 năm 1987, Đại Hội Khoáng Đại, HT Phước Huệ thưa cùng Đại Tăng xin mở Giới Đàn Phương Trượng cho các vị này thọ Sa Di, trong đó còn có Chú Hạnh Pháp, Hạnh Thông và Cô  Diệu Ý (đệ tử của HT Như Huệ, chùa Pháp Hoa, Nam Úc), 3 vị này bây giờ đã hoàn tục.

 

Sau một tuần tôi ở tại đây, vào ngày Chủ Nhật có khóa tu Bát Quan Trai, Hòa Thượng Phước Huệ mời tôi phụ giúp Ngài trong khóa tu và lễ đại chúng (cầu an, cầu siêu, cúng vong). Hôm đó, có lẽ Ngài nhìn thấy tôi làm được việc, nên Ngài tổ chức họp chúng và quyết định cử tôi về Trụ Trì Chùa Quang Minh tại tiểu bang Victoria.

 

Tôi còn nhớ như in, chỉ vỏn vẹn 11 ngày ở tại Sydney, tôi đã cùng Hòa Thượng Phước Huệ  đáp chuyến bay về Melbourne. Có khoảng hơn 20 Phật tử ra phi trường đón vị Trụ Trì mới cho Chùa Quang Minh, ngôi Chùa nhỏ tại số 177 Morris St, Sunshine. Trong ngày Lễ nhận chức Trụ Trì của tôi tại Chùa Quang Minh, Thượng Tọa Thích Huyền Tôn được cung thỉnh đến Chứng Minh, Ngài cũng là vị Trụ Trì tiền nhiệm trước tôi một thời gian. Và đây là lần đầu tiên tôi đảnh lễ Ngài.

 

Bắt đầu từ những ngày đó về sau tôi sống tại tiểu bang Victoria. Trong thời điểm này, cộng đồng Người Việt tại đây ước chừng khoảng 22 đến 25 ngàn người, nhưng duy nhất chỉ 1 ngôi Chùa Quang Minh, công việc Phật sự trăm phương ngàn ngã chỉ có 1 mình tôi gánh vác… Nhất là Tang lễ từ các vùng Đông, Tây, Nam, Bắc của thành Phố Melbourne chỉ có 1 mình tôi Trụ Trì Chùa Quang Minh đảm trách, phải nói sức khỏe của tôi sa sút trầm trọng trong thời gian đó.

 

Có một mẫu chuyện vui lúc đó về bản thân tôi khi thi hành Phật sự với tư cách là vị tân Trụ Trì tại Úc Châu, đó là chuyện mà tôi không bao giờ quên, và chắc chắn không bao giờ có  lại lần thứ hai trên xứ Úc này kể từ năm 1987. (Chú Quế, bây giờ là Thầy Phước Thiền đang ở Chùa Quang Minh có lẽ vẫn còn nhớ mẫu chuyện này). Sau khi tôi về Trụ Trì Chùa Quang Minh chừng vài tháng, có gia đình mời tôi lo cho Tang lễ, Chú Quế làm thị giả giúp tôi mọi việc đi lại và phụ lễ. Lần đầu tiên làm một đám Tang trên nước Úc, tôi áp dụng đúng 100% theo nghi thức ở quê nhà. Tang lễ giờ tốt nhất được nhập liệm là giờ Tý ( 1 giờ khuya ), quí vị đã từng ở quê nhà VN thì Tang lễ liệm vào nửa đêm khuya là chuyện rất thường, nên tôi áp dụng theo kiểu VN. Tang quyến thì không có gì trở ngại, nhưng đối với nhân viên nhà quàn thì có lẽ đây là trường hợp có một không hai trên nước Úc - đám Tang liệm 1 giờ khuya- tuy nhiên họ cũng phải thức trắng đêm và chiều ý khách hàng.

Sau lần Tang Lễ có nhiều người góp ý: Thầy phải uyển chuyển “Nhập giang tùy khúc, Đáo xứ tùy thân.”

 

Những ngày tháng đầu của tôi trên xứ Úc là vậy. Hòa Thượng thượng Huyền hạ Tôn cũng trụ xứ tại Melbourne nên tôi đã có cơ hội làm việc chung với Hòa Thượng trong Giáo Hội  suốt hơn 35 năm qua.

Biết bao nhiêu là kỷ niệm thăng trầm vui buồn giữa tôi và Hòa Thượng trên bước đường Phụng Sự Đạo Pháp và Dân Tộc trên xứ này.

Kính bạch Chư Tôn Thiền Đức, kính thưa quí thiện hữu tri thức, nếu viết về Hòa Thượng tôi không biết phải bắt đầu từ đâu, vì Ngài có nhiều kiến thức rộng rãi, Kinh sử uyên thâm, Nho Học thông thái, và Sử Học, Việt Học của nước Việt Văn Lang, Việt Lịch, Nông Lịch  Ngài cũng chuyển tải rất mạch lạc thông suốt những chặng đường của hơn 4000 năm văn hiến Nước Việt. Chỉ xin mạn phép kể đôi dòng về những điều mà tôi đã được HT trao truyền, chỉ bảo.

Khi tôi Trụ Trì Chùa Quang Minh, văn phòng của Chùa chỉ có vỏn vẹn cái máy đánh chữ xài điện, nhưng cách thức xử dụng cũng na ná như Computer, vì bộ nhớ có giới hạn vài 3 chục địa chỉ, hay những đoạn văn ngắn chẳng hạn, nhưng để ghi lại memory thì tôi mù tịt. Ngài tuy luống tuổi, nhưng rất chịu khó mày mò và luôn sưu tầm những dụng cụ cho văn phòng, từ máy móc điện tử, đến bút viết v.v… Máy đánh chữ lúc đó không có dấu hay mẫu chữ tiếng Việt, đánh xong một bản văn hay thư mời đều phải bỏ dấu bằng tay, HT chỉ tôi phải mua loại viết nào để bỏ dấu cho đẹp, HT luôn làm những việc này rất cẩn thận và tỉ mỉ.

Rồi đến thập niên 90 HT cũng là 1 trong những vị Tăng mua máy Computer đầu tiên trên nước Úc, tôi lại một lần nữa cũng học và mượn máy của Ngài xử dụng nhiều năm, lúc đó tôi vừa về Quảng Đức Tự ở Broadmeadows, còn nhiều khó khăn gian nan lắm.

Tôi nhớ lại một buổi chiều, Ngài điện thoại nói với tôi là VN bây giờ sao mà tiến bộ dữ vậy.

Tôi hỏi HT chuyện gì? HT kể: “Tiệm vải Ngọc Anh ở Footscray vừa kêu tôi xuống nhận 1 bức thư của anh Phụng chị Chi, Ba Má của cháu Hiền, thư chỉ mới viết tại Saigon lúc 1 giờ chiều, mà bây giờ là 5 giờ mình ở Úc đã nhận được rồi, sao mà tiến bộ đến thế”. Thì ra máy Fax đã bắt đầu xuất hiện, những dịch vụ thương mãi bắt đầu hái ra tiền, chuyển Fax nhanh lúc đó có giá từ $10 đến $15. Úc kim mỗi lá thư.

Và cũng không bao lâu sau đó Hòa Thượng cũng mua 1 cái máy Fax màu đen, hiệu Brother giá trên dưới $1000.Úc của thời điểm đó. Riêng tôi mãi đến giá sale sau nhiều năm mới mua nổi. Nhưng nói chính xác hơn, là những Phật sự của HT như soạn lịch và dịch Kinh sách cần phải liên hệ với nhà in hay với HT Phước Huệ, nên Ngài cần có những phương tiện hữu dụng hiệu quả sớm hơn tôi.

Rồi còn có một mẫu chuyện rất dí dỏm dễ thương và nghịch của tôi với HT. Dường như Chư Tôn Thiền Đức nào đến thăm HT vào thời điểm từ năm 1985 đến năm 2005 đều thấy HT ở an lạc 1 mình, Chư Tôn nào đến Ngài đều đích thân nấu cơm khoản đãi cúng dường, HT nấu ăn đạm bạc nhưng rất tuyệt ngon, Ngài nổi tiếng làm Chao Chùa, và rau muống luộc, hay tự làm rong biển rất ngon và đặc biệt lắm.

Chuyện dí dỏm là như thế này, một ngày nọ tôi đến Lăng Nghiêm Bảo Vương Tự ở Essendon, cùng làm việc văn phòng với HT, 2 Thầy trò mãi làm việc say sưa, đến hơn 1 giờ trưa, cả 2 đều thấy đói bụng, tôi cùng HT vào bếp, người vo gạo, người lặt rau, vừa làm HT vừa nói: “Nhà nước họ đã đưa điện, nước và gas đến tận nhà cho mình xài, nhưng sao họ không nghĩ cách đưa luôn thức ăn đến tận nhà mình, cứ đến giờ ăn là mình đến ngồi tựa vào ghế, hay nằm kéo ống đưa thức ăn vào miệng cho đỡ cực, chứ bây giờ phải nấu nướng nhiều công sức và mất thời giờ”. HT vừa nói xong, tôi buộc miệng nói liền: “Bạch HT, đâu cần phải chờ thời gian khoa học phát triển gì thêm nữa, ngay bây giờ HT muốn kiểu đó, thì HT cứ vào thẳng Phòng Cấp Cứu hạng nặng trong bệnh viện, nằm yên đó, thì thức ăn và uống, tiểu tiện đều tối tân cả, đưa vào, hút ra bằng máy hết, HT không còn phải lo lắng gì nữa, cứ nằm yên có người lo hết.”

Tôi vừa nói xong HT và tôi cùng cười ồ lên rất dễ thương, HT nói: “Cái ông Đại Đức này sao mà lanh trí thế nhỉ… trả lời có lý hả… có lý.. , nhưng mà kiểu đó thì còn gì thưởng thức nữa.”

Đó là những mẫu chuyện có thật giữa tôi và Hòa Thượng… Đồng thời trong lúc làm chung như vậy Hòa Thượng thường kể những mẫu chuyện rất xưa của cuộc đời Hòa Thượng.

Hòa Thượng là 1 trong những vị đệ tử lớn của Hòa Thượng Tân Cang, Pháp Hiệu Chơn Trung, Tổ Thứ 6 của Tổ Đình Thiên Ấn Quảng Ngãi.

 

 HT đi tu năm lên 6 tuổi… Tuổi của Khu Ô Sa Di, tuổi đuổi quạ trong vườn Chùa, HT kể trong thời gian đuổi quạ, chim đến ăn phá trái cây trong vườn chùa, những lúc rảnh rỗi vắng vẻ HT thường chuyên tâm niệm Phật rất chú tâm miên mật, niệm lâu một thời gian HT thấy tâm của mình rất nhẹ nhàng thanh thoát, trong lòng lúc nào cũng thanh thới an lạc, từ bi đến vạn vật muôn loài.

Vào ngày có rất nhiều chim quạ và trâu bò đến ăn phá vườn chùa, HT khởi tâm giận dữ với những chú chim và dùng roi đánh đuổi trâu bò phá cây trái vườn chùa.. và chỉ trong chốc lát khi niệm sân đó khởi lên.. HT không còn thấy tâm của mình thanh thoát an lạc và lòng từ bi cũng không còn nữa.. mà như có ngàn cân đè nặng trĩu trong tâm khảm của mình..

Qua mẫu chuyện này chúng ta thấy rõ thế nào là: Nhứt niệm sân tâm khởi, bát vạn chướng môn khai; một niệm sân đốt hết cả rừng công đức hay đốn cũi 3 năm đốt 1 giờ.

 

caudoichucmung-hthuyenton'

Nói về Hòa Thượng Tăng Giáo Trưởng và tôi thì có nhiều kỷ niệm, kể sao cho hết, nhất là  những công đức, ân tình cao cả mà Ngài đã dành cho đạo tràng Tu Viện Quảng Đức trong suốt 30 năm qua. Từ Đại Lễ Đặt Đá xây Chánh Điện, Lễ Động Thổ Khai Móng, đến Đại Lễ Khánh Thành Chánh Điện, Cổng Tam Quan, Tháp Tứ Ân, Tăng Xá, Giảng Đường Hoa Sen, Đạo Từ Vu Lan, Phật Đản, Trai Tăng Thất Tuần, những lời Khai Thị Khóa An Cư, pháp thoại cho Tu Bát Quan Trai, Phật Thất và nhiều lễ lạc khác.. Ngài đều dành ưu ái cho Quảng Đức không từ nan.. Duy chỉ có vài  năm gần đây Đạo Tràng Lăng Nghiêm Bảo Vương Tự của Hòa Thượng sinh hoạt hằng tuần lên tới cả 100 Phật tử vào mỗi ngày Chủ Nhật, thêm nữa tuổi cũng đã gần 90, nên dường như Hòa Thượng đã từ chối hẳn những Phật sự bên ngoài vào ngày Chủ Nhật.. Ngài muốn dành thời giờ chính cho Ngôi Tam Bảo Bảo Vương, tôi luôn thầm nghĩ và mừng, chúc nguyện an lành cho Hòa Thượng về những năm tháng cuối đời của Ngài rất hanh thông hưng thịnh trên bước đường phụng sự.

Trước đây vài tháng tôi được Hòa Thượng mời về Bảo Vương làm Lễ Động Thổ  xây ngôi Chánh Điện chánh thức cho Bảo Vương Lăng Nghiêm Tự.. tôi mừng lắm…mừng là vì có giấy phép được xây, dù lớn hay nhỏ cũng là Ngôi Tam Bảo thực thụ trong tương lai, làm lợi lạc chúng sanh, và có nơi thờ Phật được Trang Nghiêm rộng rãi, và nhất là khi HT qui Tây có một nơi để thờ tự Hòa Thượng được Tôn Nghiêm.


HT Huyen Ton_TT Tam Phuong_TT Nguyen Tang


Sáng nay tôi ngồi lưu lại những dòng chữ này trên trang giấy… Sáng sớm mùa Thu của Melbourne tiết trời cũng se se lạnh, nhưng lòng tôi thấy ấm hẳn lên, và một niềm vui ẩn hiện, chắc chắn tập kỷ yếu trang trọng này sẽ được thành tựu, vì nó đã kết tụ từ từng trái tim, tấm lòng thành kính của những Pháp Hữu Tăng Ni, Phật Tử đã từng thân quen với Hòa Thượng trong nhiều năm qua, để dâng lên ngày Đại Lễ Tri Ân của Nhị vị Hòa Thượng thượng Huyền hạ Tôn, thượng Như hạ Huệ, để báo đền trong muôn một với công Đức quá lớn của quí Ngài đã đứng ra Thành Lập Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tại  Úc Đại Lợi và Tân Tây Lan.. Chính quí Ngài đã ươm mầm nuôi dưỡng, đặt hết chí nguyện hoài bão lớn lao nhất của người Trưởng Tử Như Lai, Phát Túc Siêu Phương, Thiệu Long Thánh Chúng, để vượt qua bao nhiêu thử thách, chướng ngại, kham nhẫn và chịu đựng, cũng chỉ vì muốn cho Phật Pháp được trường tồn nhân sinh được lợi lạc.

 

 

Chắp tay nguyện cầu mười phương Chư Phật chứng minh Công Đức của nhị vị Hòa Thượng hơn 30 năm qua đã quên mình, hy sinh phụng hiến công sức cho Giáo Hội Úc Châu được vững bền lớn mạnh đến ngày hôm nay.

 

Tu Viện Quảng Đức, Melbourne  1/3/2016

TK Thích Tâm Phương  

  



   

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/02/2013(Xem: 9059)
Từ những con người bình thường, không được sinh ra ở cung vàng điện ngọc, nhưng rồi trở thành những vị vua anh minh tài kiêm văn võ, tư tưởng và nhân cách cao siêu, mãi còn đọng lại với thời gian. Dù sống ở hoàng cung nhưng tâm lúc nào cũng vượt thoát, làm bậc đế vương nhưng hạnh vẫn là một sơn Tăng, ưa vui với gió nội mây ngàn, thở nhịp cùng đất trời nhân gian cây cỏ. Để rồi trở thành những người con Phật vĩ đại, trí tuệ và công hạnh thắm đượm cả không gian, thức tỉnh chúng ta trên bến bờ sinh tử của mê ngộ, đậm nét trong lòng người đến tận hôm nay. Bồ Tát Lương Võ Đế ( 463-549 ) của Trung Hoa và Trần Thái Tông ( 1218-1277) của Việt Nam, dù ở hai phương trời xa cách, sinh ra ở hai thời điểm khác nhau, nhưng cùng chung một tấm lòng, mang an lạc thịnh vượng đến cho nhân dân, và một hạnh nguyện chuyển hoá cứu độ quần sanh.
07/02/2013(Xem: 14559)
Nửa thế kỷ Tôn Sư vắng bóng, Ánh Đạo Vàng tỏa rộng muôn phương Hôm nay tổ chức huy hoàn Hằng năm kỷ niệm, đàn tràng tôn nghiêm. Môn đồ Tứ chúng ngưỡng chiêm,
06/02/2013(Xem: 6736)
Hòa thượng Bích Liên, thế danh là Nguyễn Trọng Khải, hiệu Mai Đình (Thận Thần Thị), sinh ngày 16 tháng 3 năm Bính Tý (1876), tại làng Háo Đức, phủ An Nhơn, nay là ấp Háo Đức, xã Nhơn An, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Ngài sinh trưởng trong một gia đình nho học, được theo nghiệp bút nghiên từ nhỏ. Cha là Tú Tài Nguyễn Tự, mẹ là bà Lâm Thị Hòa Nghị . Năm 20 tuổi, Ngài lập gia đình với cô Lê Thị Hồng Kiều, người làng An Hòa, (nay thuộc xã Nhơn Khánh cùng huyện). Năm 31 tuổi, Ngài lều chõng vào trường thi Hương Bình Định và đỗ Tú Tài. Ba năm sau, Ngài lại đỗ Tú Tài lần nữa. Từ đó, biết mình long đong trên bước đường khoa bảng, Ngài giã từ lều chõng, ở nhà mở trường dạy học, mượn trăng thanh gió mát di dưỡng tính tình, lấy chén rượu câu thơ vui cùng tuế nguyệt.
03/02/2013(Xem: 5387)
Tuệ Sỹ là ai mà thơ hào sảng, hùng tâm tráng khí như thế ? Tuệ Sỹ quê Quảng Bình, sinh năm 1943, nhỏ hơn Phạm Công Thiện 2 tuổi, cũng là một bậc thiên tài xuất chúng, làu thông kinh điển Nguyên thủy, Đại thừa và nhiều thứ tiếng Anh, Pháp, Đức, Hán, Phạn, Pali. Khi mới vừa 26 tuổi đã viết Triết học về Tánh Không làm chấn động giới văn nghệ sĩ, học giả, thiện tri thức Việt Nam thời bấy giờ.
20/01/2013(Xem: 4888)
Phạm Công Thiện(1/6/1941 - 8/3/2011), là một nhà văn, triết gia, học giả, thi sĩ và cư sĩ Phật Giáo người Việt Nam với pháp danh Thích Nguyên Tánh. Tuy nhận mình là nhà thơ và phủ nhận nghề triết gia, ông vẫn được coi là một triết gia thần đồng, một hiện tượng dị thường của Sài Gòn thập niên 60 và của Việt Nam với những tư tưởng ít người hiểu và được bộc phát từ hồi còn rất trẻ. Dưới đây là bài viết của Tâm Nhiên nhân sắp đến ngày giỗ của ông.
12/01/2013(Xem: 5299)
Đã có rất nhiều sách vở, bài viết hoặc với tính chất nghiên cứu, hoặc là các bài giảng phổ cập bàn về tông Thiên Thai và kinh Pháp Hoa. Bài viết này nói đến vai trò, vị trí của Đại sư Trí Khải và tông Thiên Thai trong lịch sử Phật giáo, cũng như trong nền văn hóa tư tưởng của toàn thể nhân loại. Đại sư Trí Khải sinh năm 538, vào thời đại mà sau này các sử gia gọi là Nam Bắc triều (220-589). Sông Dương Tử được lấy làm gianh giới phân chia giữa hai miền Nam và Bắc. Trong thiền sử, ta thường nghe nói đến câu Nam Năng (Huệ Năng)-Bắc Tú (Thần Tú), để phân biệt hai dòng thiền: Đại sư Thần Tú xiển dương Thiền tiệm ngộ ngay tại Trường An; Đại sư Huệ Năng phát triển Thiền đốn ngộ tại vùng Quảng Đông và lân cận. Bấy giờ Trung Hoa bị chia thành nhiều nước nhỏ, nước này xâm lăng và thôn tính nước kia, gây nên nhiều cuộc chiến tương tàn, dân chúng sống trong cảnh lầm than đau khổ.
07/01/2013(Xem: 6115)
Phần lớn độc giả biết nhiều đến các tiểu luận và các tập thơ phản chiến, nhưng ít người biết đến những bài thơ Thiền của Nhất Hạnh. Tôi xin trích một bài được nhà xuất bản Unicorn Press xuất bản trong tâp thơ Zen Poems của Nhất Hạnh vào năm 1976 (bản dịch Anh Ngữ) của Võ Đình. Bài này được in vào tuyển tập thơ nhạc họa vào mùa Phật Đản 1964
10/12/2012(Xem: 5951)
Cả cuộc đời 86 tuổi của Ngài Đội trời đạp đất, đã tròn chưa bản nguyện Kiếp tu hành 81 năm của Ngài Gánh vác hy sinh...
09/10/2012(Xem: 9398)
Thiền sư Lê Mạnh Thátcho rằng Vua Trần Nhân Tông là một nhân vật tiêu biểu trong lịch sử Việt Nam nhất là vì tư tưởng hòa giải dân tộc của ông vẫn còn tính thời sự. Trả lời câu hỏi của BBC vì sao tư tưởng của Trần Nhân Tông (trị vì từ năm 1278-1293) và là Phật Hoàng, sáng lập ra phái thiền phái Trúc Lâm vẫn còn có tính thời sự đối với Việt Nam và cả quan hệ Mỹ - Việt cũng như Việt - Trung, Tiến sỹ Lê Mạnh Thát nói:
01/10/2012(Xem: 5018)
Kính bạch Giác Linh Đức Thầy, Dẫu biết rằng: “Cuộc đời là ảo mộng, vạn vật vốn vô thường, chuyển di không ngừng nghỉ, biến diệt lẽ tự nhiên, tử sanh không tránh khỏi.” Nhưng ân đức cao dày, tình thương nồng thắm, Đức Thầy đã ban cho hàng đệ tử chúng con, chẳng những được kết thành giới thân huệ mạng, mà còn mang lại cho cuộc đời giải thoát của chúng con vô vàn hạnh phúc… Ân đức ấy, mãi mãi khắc sâu vào cuộc đời tu học của chúng con vô cùng vững chắc, dù cho thời gian, sự vô thường có thay đổi...
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567