Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Quyển 595: Phần Bát-Nhã Ba-La-Mật-Đa 03

21/07/201521:05(Xem: 14925)
Quyển 595: Phần Bát-Nhã Ba-La-Mật-Đa 03

Tập 11

 Quyển 595

 Phần Bát-Nhã Ba-La-Mật-Đa 03
Bản dịch của HT Thích Trí Nghiêm
Diễn đọc: Cư Sĩ Chánh Trí



 

Này Thiện Dũng Mãnh! Sắc uẩn không phải sở hành sắc uẩn. Thọ, tưởng, hành, thức uẩn không phải sở hành thọ, tưởng, hành, thức uẩn.

Thiện Dũng Mãnh! Sắc uẩn không phải sở hành sắc uẩn nên không biết, không thấy. Nếu đối với sắc uẩn không biết, không thấy thì gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Thọ, tưởng, hành, thức uẩn cũng không phải sở hành thọ, tưởng, hành, thức uẩn nên không biết, không thấy. Nếu đối với thọ, tưởng, hành, thức uẩn không biết, không thấy thì gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nhãn xứ không phải sở hành nhãn xứ. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ không phải sở hành nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ.

Thiện Dũng Mãnh! Nhãn xứ không phải sở hành nhãn xứ nên không biết, không thấy. Nếu đối với nhãn xứ không biết, không thấy thì gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng không phải sở hành nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ nên không biết, không thấy. Nếu đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ không biết, không thấy thì gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Này Thiện Dũng Mãnh! Sắc xứ không phải sở hành sắc xứ. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ không phải sở hành thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ.

Thiện Dũng Mãnh! Sắc xứ không phải sở hành sắc xứ nên không biết, không thấy. Nếu đối với sắc xứ không biết, không thấy thì gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng không phải sở hành thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ nên không biết, không thấy. Nếu đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ không biết, không thấy thì gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nhãn giới không phải sở hành nhãn giới. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới không phải sở hành nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới.

Thiện Dũng Mãnh! Nhãn giới không phải sở hành nhãn giới nên không biết, không thấy. Nếu đối với nhãn giới không biết, không thấy thì gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng không phải sở hành nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới nên không biết, không thấy. Nếu đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới không biết, không thấy thì gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Này Thiện Dũng Mãnh! Sắc giới không phải sở hành sắc giới. Thanh, hương, vị, xúc, pháp giới không phải sở hành thanh, hương, vị, xúc, pháp giới.

Thiện Dũng Mãnh! Sắc giới không phải sở hành sắc giới nên không biết, không thấy. Nếu đối với sắc giới không biết, không thấy thì gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng không phải sở hành thanh, hương, vị, xúc, pháp giới nên không biết, không thấy. Nếu đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp giới không biết, không thấy thì gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nhãn thức giới không phải sở hành nhãn thức giới. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới không phải sở hành nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới.

Thiện Dũng Mãnh! Nhãn thức giới không phải sở hành nhãn thức giới nên không biết, không thấy. Nếu đối với nhãn thức giới không biết, không thấy thì gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng không phải sở hành nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới nên không biết, không thấy. Nếu đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới không biết, không thấy thì gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Này Thiện Dũng Mãnh! Tất cả pháp không phải sở hành tất cả pháp.

Thiện Dũng Mãnh! Tất cả pháp không phải sở hành tất cả pháp nên không biết, không thấy. Nếu đối với tất cả pháp không biết, không thấy thì gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Này Thiện Dũng Mãnh! Sắc uẩn không bỏ tự tánh sắc uẩn. Thọ, tưởng, hành, thức uẩn không bỏ tự tánh thọ, tưởng, hành, thức uẩn. Nếu đối với tự tánh biết khắp như vậy thì gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Nhãn xứ không bỏ tự tánh nhãn xứ. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ không bỏ tự tánh nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ. Nếu đối với tự tánh biết khắp như vậy thì gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Sắc xứ không bỏ tự tánh sắc xứ. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ không bỏ tự tánh thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ. Nếu đối với tự tánh biết khắp như vậy thì gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Nhãn giới không bỏ tự tánh nhãn giới. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới không bỏ tự tánh nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới. Nếu đối với tự tánh biết khắp như vậy thì gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Sắc giới không bỏ tự tánh sắc giới. Thanh, hương, vị, xúc, pháp giới không bỏ tự tánh thanh, hương, vị, xúc, pháp giới. Nếu đối với tự tánh biết khắp như vậy thì gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Nhãn thức giới không bỏ tự tánh nhãn thức giới. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới không bỏ tự tánh nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới. Nếu đối với tự tánh biết khắp như vậy thì gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Tất cả pháp không bỏ tự tánh tất cả pháp. Nếu đối với tự tánh biết khắp như vậy thì gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Này Thiện Dũng Mãnh! Sắc uẩn cùng với sắc uẩn không hợp, không lìa. Thọ, tưởng, hành, thức uẩn cùng với thọ, tưởng, hành, thức uẩn cũng không hợp, không lìa. Như vậy, sắc uẩn không hợp, không lìa gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa. Thọ, tưởng, hành, thức uẩn cũng không hợp, không lìa gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Nhãn xứ cùng với nhãn xứ không hợp, không lìa. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cùng với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng không hợp, không lìa. Như vậy, nhãn xứ không hợp, không lìa gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng không hợp, không lìa gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Sắc xứ cùng với sắc xứ không hợp, không lìa. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cùng với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng không hợp, không lìa. Như vậy, sắc xứ không hợp, không lìa gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng không hợp, không lìa gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Nhãn giới cùng với nhãn giới không hợp, không lìa. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cùng với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng không hợp, không lìa. Như vậy, nhãn giới không hợp, không lìa gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng không hợp, không lìa gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Sắc giới cùng với sắc giới không hợp, không lìa. Thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cùng với thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng không hợp, không lìa. Như vậy, sắc giới không hợp, không lìa gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa. Thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng không hợp, không lìa gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Nhãn thức giới cùng với nhãn thức giới không hợp, không lìa. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cùng với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng không hợp, không lìa. Như vậy, nhãn thức giới không hợp, không lìa gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng không hợp, không lìa gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Tất cả pháp cùng với tất cả pháp không hợp, không lìa. Như vậy, tất cả pháp không hợp, không lìa gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Này Thiện Dũng Mãnh! Sắc uẩn không thêm, không bớt. Thọ, tưởng, hành, thức uẩn cũng không thêm, không bớt. Như vậy, sắc uẩn không thêm, không bớt gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa. Thọ, tưởng, hành, thức uẩn cũng không thêm, không bớt gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Nhãn xứ không thêm, không bớt. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng không thêm, không bớt. Như vậy, nhãn xứ không thêm, không bớt gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng không thêm, không bớt gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Sắc xứ không thêm, không bớt. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng không thêm, không bớt. Như vậy, sắc xứ không thêm, không bớt gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng không thêm, không bớt gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Nhãn giới không thêm, không bớt. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng không thêm, không bớt. Như vậy, nhãn giới không thêm, không bớt gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng không thêm, không bớt gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Sắc giới không thêm, không bớt. Thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng không thêm, không bớt. Như vậy, sắc giới không thêm, không bớt gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa. Thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng không thêm, không bớt gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Nhãn thức giới không thêm, không bớt. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng không thêm, không bớt. Như vậy, nhãn thức giới không thêm, không bớt gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng không thêm, không bớt gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Tất cả pháp không thêm, không bớt. Như vậy, tất cả pháp không thêm, không bớt gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Này Thiện Dũng Mãnh! Sắc uẩn không dơ, không sạch. Thọ, tưởng, hành, thức uẩn cũng không dơ, không sạch. Như vậy, sắc uẩn không dơ, không sạch gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa. Thọ, tưởng, hành, thức uẩn cũng không dơ, không sạch gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Nhãn xứ không dơ, không sạch. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng không dơ, không sạch. Như vậy, nhãn xứ không dơ, không sạch gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng không dơ, không sạch gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Sắc xứ không dơ, không sạch. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng không dơ, không sạch. Như vậy, sắc xứ không dơ, không sạch gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng không dơ, không sạch gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Nhãn giới không dơ, không sạch. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng không dơ, không sạch. Như vậy, nhãn giới không dơ, không sạch gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng không dơ, không sạch gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Sắc giới không dơ, không sạch. Thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng không dơ, không sạch. Như vậy, sắc giới không dơ, không sạch gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa. Thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng không dơ, không sạch gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Nhãn thức giới không dơ, không sạch. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng không dơ, không sạch. Như vậy, nhãn thức giới không dơ, không sạch gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng không dơ, không sạch gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Tất cả pháp không dơ, không sạch. Như vậy, tất cả pháp không dơ, không sạch gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Này Thiện Dũng Mãnh! Sắc uẩn không có pháp sạch, không có pháp không sạch. Thọ, tưởng, hành, thức uẩn cũng không có pháp sạch, không có pháp không sạch. Như vậy, năm uẩn không có pháp sạch, không có pháp không sạch gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Nhãn xứ không có pháp sạch, không có pháp không sạch. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng không có pháp sạch, không có pháp không sạch. Như vậy, sáu xứ bên trong không có pháp sạch, không có pháp không sạch gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Sắc xứ không có pháp sạch, không có pháp không sạch. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng không có pháp sạch, không có pháp không sạch. Như vậy, sáu xứ bên ngoài không có pháp sạch, không có pháp không sạch gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Nhãn giới không có pháp sạch, không có pháp không sạch. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng không có pháp sạch, không có pháp không sạch. Như vậy, sáu cõi bên trong không có pháp sạch, không có pháp không sạch gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Sắc giới không có pháp sạch, không có pháp không sạch. Thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng không có pháp sạch, không có pháp không sạch. Như vậy, sáu cõi bên ngoài không có pháp sạch, không có pháp không sạch gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Nhãn thức giới không có pháp sạch, không có pháp không sạch. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng không có pháp sạch, không có pháp không sạch. Như vậy, sáu thức giới không có pháp sạch, không có pháp không sạch gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Tất cả pháp không có pháp sạch, không có pháp không sạch. Như vậy, tất cả pháp không có pháp sạch, không có pháp không sạch gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Này Thiện Dũng Mãnh! Sắc uẩn không dời chuyển, không hướng vào. Thọ, tưởng, hành, thức uẩn cũng không dời chuyển, không hướng vào. Như vậy, năm uẩn không dời chuyển, không hướng vào gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Nhãn xứ không dời chuyển, không hướng vào. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng không dời chuyển, không hướng vào. Như vậy, sáu xứ bên trong không dời chuyển, không hướng vào gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Sắc xứ không dời chuyển, không hướng vào. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng không dời chuyển, không hướng vào. Như vậy, sáu xứ bên ngoài không dời chuyển, không hướng vào gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Nhãn giới không dời chuyển, không hướng vào. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng không dời chuyển, không hướng vào. Như vậy, sáu cõi bên trong không dời chuyển, không hướng vào gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Sắc giới không dời chuyển, không hướng vào. Thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng không dời chuyển, không hướng vào. Như vậy, sáu cõi bên ngoài không dời chuyển, không hướng vào gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Nhãn thức giới không dời chuyển, không hướng vào. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng không dời chuyển, không hướng vào. Như vậy, sáu thức giới không dời chuyển, không hướng vào gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Tất cả pháp không dời chuyển, không hướng vào. Như vậy, tất cả pháp không dời chuyển, không hướng vào gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Này Thiện Dũng Mãnh! Sắc uẩn không trói buộc, không lìa trói buộc. Thọ, tưởng, hành, thức uẩn cũng không trói buộc, không lìa trói buộc. Như vậy, năm uẩn không trói buộc, không lìa trói buộc gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Nhãn xứ không trói buộc, không lìa trói buộc. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng không trói buộc, không lìa trói buộc. Như vậy, sáu xứ bên trong không trói buộc, không lìa trói buộc gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Sắc xứ không trói buộc, không lìa trói buộc. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng không trói buộc, không lìa trói buộc. Như vậy, sáu xứ bên ngoài không trói buộc, không lìa trói buộc gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Nhãn giới không trói buộc, không lìa trói buộc. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng không trói buộc, không lìa trói buộc. Như vậy, sáu cõi bên trong không trói buộc, không lìa trói buộc gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Sắc giới không trói buộc, không lìa trói buộc. Thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng không trói buộc, không lìa trói buộc. Như vậy, sáu cõi bên ngoài không trói buộc, không lìa trói buộc gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Nhãn thức giới không trói buộc, không lìa trói buộc. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng không trói buộc, không lìa trói buộc. Như vậy, sáu thức giới không trói buộc, không lìa trói buộc gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Tất cả pháp không trói buộc, không lìa trói buộc. Như vậy, tất cả pháp không trói buộc, không lìa trói buộc gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Này Thiện Dũng Mãnh! Sắc uẩn không chết, không sanh. Thọ, tưởng, hành, thức uẩn cũng không chết, không sanh. Như vậy, năm uẩn không chết, không sanh gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Nhãn xứ không chết, không sanh. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng không chết, không sanh. Như vậy, sáu xứ bên trong không chết, không sanh gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Sắc xứ không chết, không sanh. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng không chết, không sanh. Như vậy, sáu xứ bên ngoài không chết, không sanh gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Nhãn giới không chết, không sanh. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng không chết, không sanh. Như vậy, sáu cõi bên trong không chết, không sanh gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Sắc giới không chết, không sanh. Thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng không chết, không sanh. Như vậy, sáu cõi bên ngoài không chết, không sanh gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Nhãn thức giới không chết, không sanh. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng không chết, không sanh. Như vậy, sáu thức giới không chết, không sanh gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Tất cả pháp không chết, không sanh. Như vậy, tất cả pháp không chết, không sanh gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Lại nữa, Thiện Dũng Mãnh! Sắc uẩn không sanh, không chết. Thọ, tưởng, hành, thức cũng không sanh, không chết. Như vậy, năm uẩn không sanh, không chết gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Nhãn xứ không sanh, không chết. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng không sanh, không chết. Như vậy, sáu xứ bên trong không sanh, không chết gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

 Thiện Dũng Mãnh! Sắc xứ không sanh, không chết. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng không sanh, không chết. Như vậy, sáu xứ bên ngoài không sanh, không chết gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Nhãn giới không sanh, không chết. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng không sanh, không chết. Như vậy, sáu cõi bên trong không sanh, không chết gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Sắc giới không sanh, không chết. Thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng không sanh, không chết. Như vậy, sáu cõi bên ngoài không sanh, không chết gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Nhãn thức giới không sanh, không chết. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng không sanh, không chết. Như vậy, sáu thức giới không sanh, không chết gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Tất cả pháp không sanh, không chết. Như vậy, tất cả pháp không sanh, không chết gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Này Thiện Dũng Mãnh! Sắc uẩn không lưu chuyển, không có pháp lưu chuyển. Thọ, tưởng, hành, thức uẩn cũng không lưu chuyển, không có pháp lưu chuyển. Như vậy, năm uẩn không lưu chuyển, không có pháp lưu chuyển gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Nhãn xứ không lưu chuyển, không có pháp lưu chuyển. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng không lưu chuyển, không có pháp lưu chuyển. Như vậy, sáu xứ bên trong không lưu chuyển, không có pháp lưu chuyển gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Sắc xứ không lưu chuyển, không có pháp lưu chuyển. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng không lưu chuyển, không có pháp lưu chuyển. Như vậy, sáu xứ bên ngoài không lưu chuyển, không có pháp lưu chuyển gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Nhãn giới không lưu chuyển, không có pháp lưu chuyển. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng không lưu chuyển, không có pháp lưu chuyển. Như vậy, sáu cõi bên trong không lưu chuyển, không có pháp lưu chuyển gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Sắc giới không lưu chuyển, không có pháp lưu chuyển. Thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng không lưu chuyển, không có pháp lưu chuyển. Như vậy, sáu cõi bên ngoài không lưu chuyển, không có pháp lưu chuyển gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Nhãn thức giới không lưu chuyển, không có pháp lưu chuyển. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng không lưu chuyển, không có pháp lưu chuyển. Như vậy, sáu thức giới không lưu chuyển, không có pháp lưu chuyển gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Tất cả pháp không lưu chuyển, không có pháp lưu chuyển. Như vậy, tất cả pháp không lưu chuyển, không có pháp lưu chuyển gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Này Thiện Dũng Mãnh! Sắc uẩn không tận, không có pháp tận. Thọ, tưởng, hành, thức uẩn cũng không tận, không có pháp tận. Như vậy, năm uẩn không tận, không có pháp tận gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Nhãn xứ không tận, không có pháp tận. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng không tận, không có pháp tận. Như vậy, sáu xứ bên trong không tận, không có pháp tận gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Sắc xứ không tận, không có pháp tận. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng không tận, không có pháp tận. Như vậy, sáu xứ bên ngoài không tận, không có pháp tận gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Nhãn giới không tận, không có pháp tận. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng không tận, không có pháp tận. Như vậy, sáu cõi bên trong không tận, không có pháp tận gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Sắc giới không tận, không có pháp tận. Thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng không tận, không có pháp tận. Như vậy, sáu cõi bên ngoài không tận, không có pháp tận gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Nhãn thức giới không tận, không có pháp tận. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng không tận, không có pháp tận. Như vậy, sáu thức giới không tận, không có pháp tận gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Tất cả pháp không tận, không có pháp tận. Như vậy, tất cả pháp không tận, không có pháp tận gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Này Thiện Dũng Mãnh! Sắc uẩn không có pháp tập hợp, không có pháp hoại diệt. Thọ, tưởng, hành, thức uẩn cũng không có pháp tập hợp, không có pháp hoại diệt. Như vậy, năm uẩn không có pháp tập hợp, không có pháp hoại diệt gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Nhãn xứ không có pháp tập hợp, không có pháp hoại diệt. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng không có pháp tập hợp, không có pháp hoại diệt. Như vậy, sáu xứ bên trong không có pháp tập hợp, không có pháp hoại diệt gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Sắc xứ không có pháp tập hợp, không có pháp hoại diệt. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng không có pháp tập hợp, không có pháp hoại diệt. Như vậy, sáu xứ bên ngoài không có pháp tập hợp, không có pháp hoại diệt gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Nhãn giới không có pháp tập hợp, không có pháp hoại diệt. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng không có pháp tập hợp, không có pháp hoại diệt. Như vậy, sáu cõi bên trong không có pháp tập hợp, không có pháp hoại diệt gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Sắc giới không có pháp tập hợp, không có pháp hoại diệt. Thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng không có pháp tập hợp, không có pháp hoại diệt. Như vậy, sáu cõi bên ngoài không có pháp tập hợp, không có pháp hoại diệt gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Nhãn thức giới không có pháp tập hợp, không có pháp hoại diệt. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng không có pháp tập hợp, không có pháp hoại diệt. Như vậy, sáu thức giới không có pháp tập hợp, không có pháp hoại diệt gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Tất cả pháp không có pháp tập hợp, không có pháp hoại diệt. Như vậy, tất cả pháp không có pháp tập hợp, không có pháp hoại diệt gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Này Thiện Dũng Mãnh! Sắc uẩn không có pháp sanh khởi, không có pháp tận. Thọ, tưởng, hành, thức uẩn cũng không có pháp sanh khởi, không có pháp tận. Như vậy, năm uẩn không có pháp sanh khởi, không có pháp tận gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Nhãn xứ không có pháp sanh khởi, không có pháp tận. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng không có pháp sanh khởi, không có pháp tận. Như vậy, sáu xứ bên trong không có pháp sanh khởi, không có pháp tận gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Sắc xứ không có pháp sanh khởi, không có pháp tận. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng không có pháp sanh khởi, không có pháp tận. Như vậy, sáu xứ bên ngoài không có pháp sanh khởi, không có pháp tận gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Nhãn giới không có pháp sanh khởi, không có pháp tận. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng không có pháp sanh khởi, không có pháp tận. Như vậy, sáu cõi bên trong không có pháp sanh khởi, không có pháp tận gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Sắc giới không có pháp sanh khởi, không có pháp tận. Thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng không có pháp sanh khởi, không có pháp tận. Như vậy, sáu cõi bên ngoài không có pháp sanh khởi, không có pháp tận gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Nhãn thức giới không có pháp sanh khởi, không có pháp tận. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng không có pháp sanh khởi, không có pháp tận. Như vậy, sáu thức giới không có pháp sanh khởi, không có pháp tận gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Tất cả pháp không có pháp sanh khởi, không có pháp tận. Như vậy, tất cả pháp không có pháp sanh khởi, không có pháp tận gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Này Thiện Dũng Mãnh! Sắc uẩn không có pháp biến hoại, không có pháp không biến hoại. Thọ, tưởng, hành, thức uẩn cũng không có pháp biến hoại, không có pháp không biến hoại. Như vậy, năm uẩn không có pháp biến hoại, không có pháp không biến hoại gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Nhãn xứ không có pháp biến hoại, không có pháp không biến hoại. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng không có pháp biến hoại, không có pháp không biến hoại. Như vậy, sáu xứ bên trong không có pháp biến hoại, không có pháp không biến hoại gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Sắc xứ không có pháp biến hoại, không có pháp không biến hoại. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng không có pháp biến hoại, không có pháp không biến hoại. Như vậy, sáu xứ bên ngoài không có pháp biến hoại, không có pháp không biến hoại gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Nhãn giới không có pháp biến hoại, không có pháp không biến hoại. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng không có pháp biến hoại, không có pháp không biến hoại. Như vậy, sáu cõi bên trong không có pháp biến hoại, không có pháp không biến hoại gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Sắc giới không có pháp biến hoại, không có pháp không biến hoại. Thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng không có pháp biến hoại, không có pháp không biến hoại. Như vậy, sáu cõi bên ngoài không có pháp biến hoại, không có pháp không biến hoại gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Nhãn thức giới không có pháp biến hoại, không có pháp không biến hoại. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng không có pháp biến hoại, không có pháp không biến hoại. Như vậy, sáu thức giới không có pháp biến hoại, không có pháp không biến hoại gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Tất cả pháp không có pháp biến hoại, không có pháp không biến hoại. Như vậy, tất cả pháp không có pháp biến hoại, không có pháp không biến hoại gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Này Thiện Dũng Mãnh! Sắc uẩn không thường, không vô thường, không vui, không khổ, không ngã, không vô ngã, không sạch, không phải không sạch. Thọ, tưởng, hành, thức uẩn cũng không thường, không vô thường, không vui, không khổ, không ngã, không vô ngã, không sạch, không phải không sạch. Như vậy, năm uẩn không thường, không vô thường, không vui, không khổ, không ngã, không vô ngã, không sạch, không phải không sạch gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Nhãn xứ không thường, không vô thường, không vui, không khổ, không ngã, không vô ngã, không sạch, không phải không sạch. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng không thường, không vô thường, không vui, không khổ, không ngã, không vô ngã, không sạch, không phải không sạch. Như vậy, sáu xứ bên trong không thường, không vô thường, không vui, không khổ, không ngã, không vô ngã, không sạch, không phải không sạch gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Sắc xứ không thường, không vô thường, không vui, không khổ, không ngã, không vô ngã, không sạch, không phải không sạch. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng không thường, không vô thường, không vui, không khổ, không ngã, không vô ngã, không sạch, không phải không sạch. Như vậy, sáu xứ bên ngoài không thường, không vô thường, không vui, không khổ, không ngã, không vô ngã, không sạch, không phải không sạch gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Nhãn giới không thường, không vô thường, không vui, không khổ, không ngã, không vô ngã, không sạch, không phải không sạch. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng không thường, không vô thường, không vui, không khổ, không ngã, không vô ngã, không sạch, không phải không sạch. Như vậy, sáu cõi bên trong không thường, không vô thường, không vui, không khổ, không ngã, không vô ngã, không sạch, không phải không sạch gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Sắc giới không thường, không vô thường, không vui, không khổ, không ngã, không vô ngã, không sạch, không phải không sạch. Thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng không thường, không vô thường, không vui, không khổ, không ngã, không vô ngã, không sạch, không phải không sạch. Như vậy, sáu cõi bên ngoài không thường, không vô thường, không vui, không khổ, không ngã, không vô ngã, không sạch, không phải không sạch gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Nhãn thức giới không thường, không vô thường, không vui, không khổ, không ngã, không vô ngã, không sạch, không phải không sạch. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng không thường, không vô thường, không vui, không khổ, không ngã, không vô ngã, không sạch, không phải không sạch. Như vậy, sáu thức giới không thường, không vô thường, không vui, không khổ, không ngã, không vô ngã, không sạch, không phải không sạch gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Tất cả pháp không thường, không vô thường, không vui, không khổ, không ngã, không vô ngã, không sạch, không phải không sạch. Như vậy, tất cả pháp không thường, không vô thường, không vui, không khổ, không ngã, không vô ngã, không sạch, không phải không sạch gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Này Thiện Dũng Mãnh! Sắc uẩn không có pháp tham, sân, si, không có pháp lìa tham, sân, si. Thọ, tưởng, hành, thức uẩn cũng không có pháp tham, sân, si, không có pháp lìa tham, sân, si. Như vậy, năm uẩn không có pháp tham, sân, si, không có pháp lìa tham, sân, si gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Nhãn xứ không có pháp tham, sân, si, không có pháp lìa tham, sân, si. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng không có pháp tham, sân, si, không có pháp lìa tham, sân, si. Như vậy, sáu xứ bên trong không có pháp tham, sân, si, không có pháp lìa tham, sân, si gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Sắc xứ không có pháp tham, sân, si, không có pháp lìa tham, sân, si. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng không có pháp tham, sân, si, không có pháp lìa tham, sân, si. Như vậy, sáu xứ bên ngoài không có pháp tham, sân, si, không có pháp lìa tham, sân, si gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Nhãn giới không có pháp tham, sân, si, không có pháp lìa tham, sân, si. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng không có pháp tham, sân, si, không có pháp lìa tham, sân, si. Như vậy, sáu cõi bên trong không có pháp tham, sân, si, không có pháp lìa tham, sân, si gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Sắc giới không có pháp tham, sân, si, không có pháp lìa tham, sân, si. Thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng không có pháp tham, sân, si, không có pháp lìa tham, sân, si. Như vậy, sáu cõi bên ngoài không có pháp tham, sân, si, không có pháp lìa tham, sân, si gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Nhãn thức giới không có pháp tham, sân, si, không có pháp lìa tham, sân, si. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng không có pháp tham, sân, si, không có pháp lìa tham, sân, si. Như vậy, sáu thức giới không có pháp tham, sân, si, không có pháp lìa tham, sân, si gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Tất cả pháp không có pháp tham, sân, si, không có pháp lìa tham, sân, si. Như vậy, tất cả pháp không có pháp tham, sân, si, không có pháp lìa tham, sân, si gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Này Thiện Dũng Mãnh! Sắc uẩn không người làm, không người sai làm, không người phát khởi, không người khiến phát khởi, không người rõ, không người làm rõ, không người nhận, không người sai nhận, không người thấy biết. Thọ, tưởng, hành, thức uẩn cũng không người làm, không người sai làm, không người phát khởi, không người khiến phát khởi, không người rõ, không người làm rõ, không người nhận, không người sai nhận, không người thấy biết. Như vậy, năm uẩn không người làm, không người sai làm, không người phát khởi, không người khiến phát khởi, không người rõ, không người làm rõ, không người nhận, không người sai nhận, không người thấy biết gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Nhãn xứ không người làm, không người sai làm, không người phát khởi, không người khiến phát khởi, không người rõ, không người làm rõ, không người nhận, không người sai nhận, không người thấy biết. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng không người làm, không người sai làm, không người phát khởi, không người khiến phát khởi, không người rõ, không người làm rõ, không người nhận, không người sai nhận, không người thấy biết. Như vậy, sáu xứ bên trong không người làm, không người sai làm, không người phát khởi, không người khiến phát khởi, không người rõ, không người làm rõ, không người nhận, không người sai nhận, không người thấy biết gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Sắc xứ không người làm, không người sai làm, không người phát khởi, không người khiến phát khởi, không người rõ, không người làm rõ, không người nhận, không người sai nhận, không người thấy biết. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng không người làm, không người sai làm, không người phát khởi, không người khiến phát khởi, không người rõ, không người làm rõ, không người nhận, không người sai nhận, không người thấy biết. Như vậy, sáu xứ bên ngoài không người làm, không người sai làm, không người phát khởi, không người khiến phát khởi, không người rõ, không người làm rõ, không người nhận, không người sai nhận, không người thấy biết gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Nhãn giới không người làm, không người sai làm, không người phát khởi, không người khiến phát khởi, không người rõ, không người làm rõ, không người nhận, không người sai nhận, không người thấy biết. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng không người làm, không người sai làm, không người phát khởi, không người khiến phát khởi, không người rõ, không người làm rõ, không người nhận, không người sai nhận, không người thấy biết. Như vậy, sáu cõi bên trong không người làm, không người sai làm, không người phát khởi, không người khiến phát khởi, không người rõ, không người làm rõ, không người nhận, không người sai nhận, không người thấy biết gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Sắc giới không người làm, không người sai làm, không người phát khởi, không người khiến phát khởi, không người rõ, không người làm rõ, không người nhận, không người sai nhận, không người thấy biết. Thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng không người làm, không người sai làm, không người phát khởi, không người khiến phát khởi, không người rõ, không người làm rõ, không người nhận, không người sai nhận, không người thấy biết. Như vậy, sáu cõi bên ngoài không người làm, không người sai làm, không người phát khởi, không người khiến phát khởi, không người rõ, không người làm rõ, không người nhận, không người sai nhận, không người thấy biết gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Nhãn thức giới không người làm, không người sai làm, không người phát khởi, không người khiến phát khởi, không người rõ, không người làm rõ, không người nhận, không người sai nhận, không người thấy biết. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng không người làm, không người sai làm, không người phát khởi, không người khiến phát khởi, không người rõ, không người làm rõ, không người nhận, không người sai nhận, không người thấy biết. Như vậy, sáu thức giới không người làm, không người sai làm, không người phát khởi, không người khiến phát khởi, không người rõ, không người làm rõ, không người nhận, không người sai nhận, không người thấy biết gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Tất cả pháp không người làm, không người sai làm, không người phát khởi, không người khiến phát khởi, không người rõ, không người làm rõ, không người nhận, không người sai nhận, không người thấy biết. Như vậy, tất cả pháp không người làm, không người sai làm, không người phát khởi, không người khiến phát khởi, không người rõ, không người làm rõ, không người nhận, không người sai nhận, không người thấy biết gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Này Thiện Dũng Mãnh! Sắc uẩn không đoạn, không thường, không hữu biên, không vô biên. Thọ, tưởng, hành, thức uẩn cũng không đoạn, không thường, không hữu biên, không vô biên. Như vậy, năm uẩn không đoạn, không thường, không hữu biên, không vô biên gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Nhãn xứ không đoạn, không thường, không hữu biên, không vô biên. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng không đoạn, không thường, không hữu biên, không vô biên. Như vậy, sáu xứ bên trong không đoạn, không thường, không hữu biên, không vô biên gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Sắc xứ không đoạn, không thường, không hữu biên, không vô biên. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng không đoạn, không thường, không hữu biên, không vô biên. Như vậy, sáu xứ bên ngoài không đoạn, không thường, không hữu biên, không vô biên gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Nhãn giới không đoạn, không thường, không hữu biên, không vô biên. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng không đoạn, không thường, không hữu biên, không vô biên. Như vậy, sáu cõi bên trong không đoạn, không thường, không hữu biên, không vô biên gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Sắc giới không đoạn, không thường, không hữu biên, không vô biên. Thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng không đoạn, không thường, không hữu biên, không vô biên. Như vậy, sáu cõi bên ngoài không đoạn, không thường, không hữu biên, không vô biên gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Nhãn thức giới không đoạn, không thường, không hữu biên, không vô biên. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng không đoạn, không thường, không hữu biên, không vô biên. Như vậy, sáu thức giới không đoạn, không thường, không hữu biên, không vô biên gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Tất cả pháp không đoạn, không thường, không hữu biên, không vô biên. Như vậy, tất cả pháp không đoạn, không thường, không hữu biên, không vô biên gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Này Thiện Dũng Mãnh! Sắc uẩn không tà kiến, không đoạn tà kiến, không ái, không đoạn ái. Thọ, tưởng, hành, thức uẩn cũng không tà kiến, không đoạn tà kiến, không ái, không đoạn ái. Như vậy, năm uẩn không tà kiến, không đoạn tà kiến, không ái, không đoạn ái gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Nhãn xứ không tà kiến, không đoạn tà kiến, không ái, không đoạn ái. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng không tà kiến, không đoạn tà kiến, không ái, không đoạn ái. Như vậy, sáu xứ bên trong không tà kiến, không đoạn tà kiến, không ái, không đoạn ái gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Sắc xứ không tà kiến, không đoạn tà kiến, không ái, không đoạn ái. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng không tà kiến, không đoạn tà kiến, không ái, không đoạn ái. Như vậy, sáu xứ bên ngoài không tà kiến, không đoạn tà kiến, không ái, không đoạn ái gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Nhãn giới không tà kiến, không đoạn tà kiến, không ái, không đoạn ái. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng không tà kiến, không đoạn tà kiến, không ái, không đoạn ái. Như vậy, sáu cõi bên trong không tà kiến, không đoạn tà kiến, không ái, không đoạn ái gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Sắc giới không tà kiến, không đoạn tà kiến, không ái, không đoạn ái. Thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng không tà kiến, không đoạn tà kiến, không ái, không đoạn ái. Như vậy, sáu cõi bên ngoài không tà kiến, không đoạn tà kiến, không ái, không đoạn ái gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Nhãn thức giới không tà kiến, không đoạn tà kiến, không ái, không đoạn ái. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng không tà kiến, không đoạn tà kiến, không ái, không đoạn ái. Như vậy, sáu thức giới không tà kiến, không đoạn tà kiến, không ái, không đoạn ái gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Tất cả pháp không tà kiến, không đoạn tà kiến, không ái, không đoạn ái. Như vậy, tất cả pháp không tà kiến, không đoạn tà kiến, không ái, không đoạn ái gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Này Thiện Dũng Mãnh! Sắc uẩn không thiện, không phải không thiện. Thọ, tưởng, hành, thức uẩn cũng không thiện, không phải không thiện. Như vậy, năm uẩn không thiện, không phải không thiện gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Nhãn xứ không thiện, không phải không thiện. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng không thiện, không phải không thiện. Như vậy, sáu xứ bên trong không thiện, không phải không thiện gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Sắc xứ không thiện, không phải không thiện. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng không thiện, không phải không thiện. Như vậy, sáu xứ bên ngoài không thiện, không phải không thiện gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Nhãn giới không thiện, không phải không thiện. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng không thiện, không phải không thiện. Như vậy, sáu cõi bên trong không thiện, không phải không thiện gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Sắc giới không thiện, không phải không thiện. Thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng không thiện, không phải không thiện. Như vậy, sáu cõi bên ngoài không thiện, không phải không thiện gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Nhãn thức giới không thiện, không phải không thiện. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng không thiện, không phải không thiện. Như vậy, sáu thức giới không thiện, không phải không thiện gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Dũng Mãnh! Tất cả pháp không thiện, không phải không thiện. Như vậy, tất cả pháp không thiện, không phải không thiện gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

 

   Quyển thứ 595

Hết

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
02/09/2017(Xem: 7150)
Giờ phút đáng nhớ của tất cả những người con Phật Việt Nam là thời điểm 12 giờ 35 phút ngày 29 tháng 8 năm 2017, khi Thầy Nhất Hạnh, người Thầy lớn không chỉ của Phật tử Việt Nam mà của cả thế giới đã hạ cánh an toàn xuống sân bay quốc tế Đà Nẵng. Tất cả đã vỡ òa trong hạnh phúc và bất ngờ. Thầy đang và sẽ nghỉ ngơi, tĩnh dưỡng tại Đà Nẵng và Huế. Trong những ngày qua, tôi đã nhận được rất nhiều nhắn tin, điện thoại, email của quý vị trong và ngoài nước, từ cả các vị Phật tử tại gia lẫn quý thầy, quý sư cô xuất gia đề nghị giúp đỡ thu xếp để họ có thể đến thăm viếng và đảnh lễ Thầy. Nhiều quý vị đề nghị giúp đăng ký trước để có thể tham gia các khóa thiền do Thầy Nhất Hạnh trực tiếp hướng dẫn. Đó cũng là nỗi niềm tha thiết và chính đáng của tất cả quý vị và tôi thấy xúc động và trân quý vô cùng.
01/09/2017(Xem: 4833)
Sương mù Đà lạt ngàn Thông, Xuân Hương in bóng, bụi hồng trăng thanh. Linh sơn gián vẽ như tranh, Giăng sầu mù trắng, bước chân an lành.
18/08/2017(Xem: 43931)
Thầy sinh vào giờ Thân, ngày 18 tháng 4, năm Nhâm Thìn. Ngày tháng năm sinh theo giấy tờ khai sinh ngày 19/5/1953. Quê quán Thành Công, Quảng Điền, Thừa Thiên. Xuất gia lúc 13 tuổi tại chùa Phước Duyên, Huế. Bổn Sư Thế Độ là Hòa thượng Thích Đảnh Lễ, khai sơn chùa Phước Duyên-Huế. Nghiệp sư là Hòa thượng Thích Lương Phương, Viện chủ chùa Phước Duyên – Huế. Năm 18 tuổi, thọ Sa Di tại Tổ đình Tây Thiên Huế, do Đại lão Hòa thượng Thích Giác Nhiên, Trú trì Tổ đình Thuyền Tôn làm Đàn đầu Hòa thượng và Hòa thượng Thích Mật Nguyện, Chánh Đại Diện GHPGVNTN, Miền Vạn Hạnh làm Đàn chủ. Năm 22 tuổi, thọ Tỷ khưu – Bồ tát giới tại Đại giới đàn Phước Huệ tổ chức tại Phật Học Viện Trung Phần, Hải Đức Nha Trang, do Trưởng lão Hòa thượng Thích Phước Hộ làm đàn đầu Hòa thượng và Trưởng lão Hòa thượng Thích Trí Thủ làm Đàn chủ.
07/08/2017(Xem: 9873)
Ngày 04/08/2017, Thầy Thích Trí Chơn sang Trung tâm Làng Mai Quốc tế - Thái Lan thăm Thiền sư Thích Nhất Hạnh và Tăng thân Làng Mai, tháp tùng Thầy có Đại đức Thích Quảng Thức - Quản chúng Tu viện. Vào lúc 13 giờ, Thầy có mặt tại Sân bay Quốc tế Don Mueang - Bangkok. Đón Thầy có Thầy Thích Pháp Tánh - Tri sự Trung tâm Làng Mai và một số quí thầy, cô.
07/08/2017(Xem: 7002)
Lúc đầu định đi vào các nhà tù cho biết, vậy mà suốt bốn năm qua, ròng rã hằng tuần, ông vào những nơi này để giúp cho các tù nhân. Từ lúc chỉ đi hai, ba nhà tù, đến nay ông đã đi bảy nơi ở Nam California. Dù đoạn đường từ nơi ông ở đến các nhà tù phần lớn đều trên 200 dặm, nhưng cứ mỗi lần rong ruổi, ông thầm cảm ơn Đức Phật đã đưa đường chỉ lối cho ông.
03/08/2017(Xem: 7293)
Thành Kính Tưởng Niệm Cố Giác Linh Hòa Thượng Thượng THIỆN Hạ TRUNG – Hiệu THÍCH THÔNG HIẾU (Chứng Minh Ban Trị Sự Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Huyện Long Thành Trụ Trì THIỀN VIỆN ĐẠO HUỆ) Vừa Viên Tịch Mùng 07 Tháng 06 Nhuận – Đinh Dậu (29/07/2017) Trụ Thế 75 Năm – 50 Tuổi Hạ
13/07/2017(Xem: 9452)
Kỷ Yếu Tưởng Niệm HT Như Huệ (1934-2016)
07/07/2017(Xem: 33948)
Trang nhà Quảng Đức vừa nhận được email báo tin của HT Thích Minh Hiếu từ Hoa Kỳ: ĐẠI LÃO HÒA THƯỢNG THÍCH GIÁC NHIÊN - Pháp Chủ Giáo Hội Phật Giáo Tăng Già Khất Sĩ Thế Giới - Viện Chủ Tổ Đình Tịnh Xá Minh Đăng Quang (Mỹ). Vị Đại đệ tử sau cùng của đức Tổ Sư Minh Đăng Quang vừa thu thần viên tịch vào lúc 10 giờ 32 phút tối ngày 03 tháng 08 năm 2015 (nhằm ngày 19/06/âm lịch) tại Orange Coast Memorial Medical Center (USA). Chương Trình Tang lễ sẽ công bố trong thời gian sớm nhất.
01/07/2017(Xem: 16399)
Cư Sĩ Long Quân Hồ Công Lộ là một Phật tử thuần thành, có công hộ trì Phật Pháp từ đầu thập niên 60 tại quê hương Việt Nam và đến Úc định cư đầu thập niên 80, làm Chủ Bút Tuần Báo Nhân Quyền tại tiểu bang Victoria, ông từng là một Luật Sư, một nhà báo có tâm với quê hương Việt Nam và nền văn hóa Việt Nam tại Hải Ngoại, ông đã có những đóng góp thiết thực cho sự lớn mạnh của Cộng Đồng Người Việt Tự Do tại Úc Châu. Thành tâm kính thỉnh Chư Tôn Thiền Đức Tăng Ni và quý Đồng Hương Phật tử góp lời cầu nguyện, niệm Phật tiếp dẫn Cư Sĩ Tâm Phước Hồ Công Lộ sớm vãng sanh Cực Lạc Quốc.
19/06/2017(Xem: 10432)
Đây là chương cuối cuốn sách tôi dự định cho ra đời như một lời ngỏ chân thành cảm ơn đến với mọi nhân duyên, mọi tình thân mà tôi may mắn nhận được suốt bốn mươi năm ở xứ Mỹ. Tình sâu nghĩa nặng canh cánh trong lòng bấy lâu nhưng cho dù có nói khéo, có viết hay cũng không thể bày tỏ trọn vẹn, nói hết những điều mình muốn nói. Những lời rào đón dông dài nào có nghĩa gì chi bằng hãy thành thật với lòng và xin mời người cùng ngồi ôn lại chuyện cũ không khác chi những lời bộc bạch bên nhau.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]