Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Quyển 383: Phẩm Tướng Các Công Đức 05, Phẩm Các Pháp Bình Đẳng 01

15/07/201520:33(Xem: 15260)
Quyển 383: Phẩm Tướng Các Công Đức 05, Phẩm Các Pháp Bình Đẳng 01

Tập 07

 Quyển 383

 Phẩm Tướng Các Công Đức 05

Bản dịch của HT Thích Trí Nghiêm
Diễn đọc: Cư Sĩ Chánh Trí




 

 

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu chơn pháp giới, chơn như, thật tế không chuyển, vượt thì sắc cùng với pháp giới, chơn như, thật tế có khác chăng? Thọ, tưởng, hành, thức cùng với pháp giới, chơn như, thật tế có khác chăng?

Bạch Thế Tôn! Nhãn xứ cùng với pháp giới, chơn như, thật tế có khác chăng? Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cùng với pháp giới, chơn như, thật tế có khác chăng?

Bạch Thế Tôn! Sắc xứ cùng với pháp giới, chơn như, thật tế có khác chăng? Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cùng với pháp giới, chơn như, thật tế có khác chăng?

Bạch Thế Tôn! Nhãn giới cùng với pháp giới, chơn như, thật tế có khác chăng? Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cùng với pháp giới, chơn như, thật tế có khác chăng?

Bạch Thế Tôn! Sắc giới cùng với pháp giới, chơn như, thật tế có khác chăng? Thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cùng với pháp giới, chơn như, thật tế có khác chăng?

Bạch Thế Tôn! Nhãn thức giới cùng với pháp giới, chơn như, thật tế có khác chăng? Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cùng với pháp giới, chơn như, thật tế có khác chăng?

Bạch Thế Tôn! Nhãn xúc cùng với pháp giới, chơn như, thật tế có khác chăng? Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc cùng với pháp giới, chơn như, thật tế có khác chăng?

Bạch Thế Tôn! Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra cùng với pháp giới, chơn như, thật tế có khác chăng? Các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra cùng với pháp giới, chơn như, thật tế có khác chăng?

Bạch Thế Tôn! Địa giới cùng với pháp giới, chơn như, thật tế có khác chăng? Thủy, hỏa, phong, không, thức giới cùng với pháp giới, chơn như, thật tế có khác chăng?

Bạch Thế Tôn! Nhân duyên cùng với pháp giới, chơn như, thật tế có khác chăng? Đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên cùng với pháp giới, chơn như, thật tế có khác chăng?

Bạch Thế Tôn! Pháp từ các duyên sanh ra cùng với pháp giới, chơn như, thật tế có khác chăng?

Bạch Thế Tôn! Vô minh cùng với pháp giới, chơn như, thật tế có khác chăng? Hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não cùng với pháp giới, chơn như, thật tế có khác chăng?

Bạch Thế Tôn! Bố thí Ba-la-mật-đa cùng với pháp giới, chơn như, thật tế có khác chăng? Tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa cùng với pháp giới, chơn như, thật tế có khác chăng?

Bạch Thế Tôn! Bốn tịnh lự cùng với pháp giới, chơn như, thật tế có khác chăng? Bốn vô lượng, bốn định vô sắc cùng với pháp giới, chơn như, thật tế có khác chăng?

Bạch Thế Tôn! Bốn niệm trụ cùng với pháp giới, chơn như, thật tế có khác chăng? Bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lưc, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo cùng với pháp giới, chơn như, thật tế có khác chăng?

Bạch Thế Tôn! Pháp môn giải thoát không cùng với pháp giới, chơn như, thật tế có khác chăng? Pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện cùng với pháp giới, chơn như, thật tế có khác chăng?

Bạch Thế Tôn! Pháp không nội cùng với pháp giới, chơn như, thật tế có khác chăng? Pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh cùng với pháp giới, chơn như, thật tế có khác chăng?

Bạch Thế Tôn! Thánh đế khổ cùng với pháp giới, chơn như, thật tế có khác chăng? Thánh đế tập, diệt, đạo cùng với pháp giới, chơn như, thật tế có khác chăng?

Bạch Thế Tôn! Tám giải thoát cùng với pháp giới, chơn như, thật tế có khác chăng? Tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ cùng với pháp giới, chơn như, thật tế có khác chăng?

Bạch Thế Tôn! Tất cả pháp môn Đà-la-ni cùng với pháp giới, chơn như, thật tế có khác chăng? Tất cả pháp môn Tam-ma-địa cùng với pháp giới, chơn như, thật tế có khác chăng?

Bạch Thế Tôn! Bậc Cực hỷ cùng với pháp giới, chơn như, thật tế có khác chăng? Bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân cùng với pháp giới, chơn như, thật tế có khác chăng?

Bạch Thế Tôn! Năm loại mắt cùng với pháp giới, chơn như, thật tế có khác chăng? Sáu phép thần thông cùng với pháp giới, chơn như, thật tế có khác chăng?

Bạch Thế Tôn! Mười lực Phật cùng với pháp giới, chơn như, thật tế có khác chăng? Bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng cùng với pháp giới, chơn như, thật tế có khác chăng?

Bạch Thế Tôn! Đại từ cùng với pháp giới, chơn như, thật tế có khác chăng? Đại bi, đại hỷ, đại xả cùng với pháp giới, chơn như, thật tế có khác chăng?

Bạch Thế Tôn! Pháp không quên mất cùng với pháp giới, chơn như, thật tế có khác chăng? Tánh luôn luôn xả cùng với pháp giới, chơn như, thật tế có khác chăng?

Bạch Thế Tôn! Trí nhất thiết cùng với pháp giới, chơn như, thật tế có khác chăng? Trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng cùng với pháp giới, chơn như, thật tế có khác chăng?

Bạch Thế Tôn! Ba mươi hai tướng Đại sĩ cùng với pháp giới, chơn như, thật tế có khác chăng? Tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc cùng với pháp giới, chơn như, thật tế có khác chăng?

Bạch Thế Tôn! Quả Dự lưu cùng với pháp giới, chơn như, thật tế có khác chăng? Quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, quả vị Độc giác cùng với pháp giới, chơn như, thật tế có khác chăng?

Bạch Thế Tôn! Tất cả hạnh Đại Bồ-tát cùng với pháp giới, chơn như, thật tế có khác chăng? Quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật cùng với pháp giới, chơn như, thật tế có khác chăng?

Bạch Thế Tôn! Pháp thế gian cùng với pháp giới, chơn như, thật tế có khác chăng? Pháp xuất thế gian cùng với pháp giới, chơn như, thật tế có khác chăng?

Bạch Thế Tôn! Pháp hữu lậu cùng với pháp giới, chơn như, thật tế có khác chăng? Pháp vô lậu cùng với pháp giới, chơn như, thật tế có khác chăng?

Bạch Thế Tôn! Pháp hữu vi cùng với pháp giới, chơn như, thật tế có khác chăng? Pháp vô vi cùng với pháp giới, chơn như, thật tế có khác chăng?

Phật dạy:

- Không! Thiện Hiện! Sắc chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế; thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế.

Này Thiện Hiện! Nhãn xứ chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế.

Này Thiện Hiện! Sắc xứ chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế.

Này Thiện Hiện! Nhãn giới chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế.

Này Thiện Hiện! Sắc giới chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế; thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế.

Này Thiện Hiện! Nhãn thức giới chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế.

Này Thiện Hiện! Nhãn xúc chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc cũng chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế.

Này Thiện Hiện! Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế; các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra cũng chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế.

Này Thiện Hiện! Địa giới chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế; thủy, hỏa, phong, không, thức giới cũng chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế.

Này Thiện Hiện! Nhân duyên chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế; đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên cũng chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế.

Này Thiện Hiện! Pháp từ các duyên sanh ra chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế.

Này Thiện Hiện! Vô minh chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế; hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não cũng chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế.

Này Thiện Hiện! Bố thí Ba-la-mật-đa chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế; tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa cũng chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế.

Này Thiện Hiện! Bốn tịnh lự chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế; bốn vô lượng, bốn định vô sắc cũng chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế.

Này Thiện Hiện! Bốn niệm trụ chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế; bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lưc, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo cũng chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế.

Này Thiện Hiện! Pháp môn giải thoát không chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế; pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện cũng chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế.

Này Thiện Hiện! Pháp không nội chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế; pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh cũng chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế.

Này Thiện Hiện! Thánh đế khổ chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế; Thánh đế tập, diệt, đạo cũng chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế.

Này Thiện Hiện! Tám giải thoát chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế; tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ cũng chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế.

Này Thiện Hiện! Tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế; tất cả pháp môn Tam-ma-địa cũng chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế.

Này Thiện Hiện! Bậc Cực hỷ chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế; bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân cũng chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế.

Này Thiện Hiện! Năm loại mắt chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế; sáu phép thần thông cũng chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế.

Này Thiện Hiện! Mười lực Phật chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế; bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng cũng chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế.

Này Thiện Hiện! Đại từ chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế; đại bi, đại hỷ, đại xả cũng chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế.

Này Thiện Hiện! Pháp không quên mất chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế; tánh luôn luôn xả cũng chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế.

Này Thiện Hiện! Trí nhất thiết chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế; trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng cũng chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế.

Này Thiện Hiện! Ba mươi hai tướng Đại sĩ chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế; tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc cũng chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế.

Này Thiện Hiện! Quả Dự lưu chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế; quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, quả vị Độc giác cũng chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế.

Này Thiện Hiện! Tất cả hạnh Đại Bồ-tát chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế; quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật cũng chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế.

Này Thiện Hiện! Pháp thế gian chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế; pháp xuất thế gian cũng chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế.

Này Thiện Hiện! Pháp hữu lậu chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế; pháp vô lậu cũng chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế.

Này Thiện Hiện! Pháp hữu vi chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế; pháp vô vi cũng chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế.

Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu sắc chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế; thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế.

Bạch Thế Tôn! Nếu nhãn xứ chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế.

Bạch Thế Tôn! Nếu sắc xứ chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế.

Bạch Thế Tôn! Nếu nhãn giới chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế.

Bạch Thế Tôn! Nếu sắc giới chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế; thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế.

Bạch Thế Tôn! Nếu nhãn thức giới chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế.

Bạch Thế Tôn! Nếu nhãn xúc chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc cũng chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế.

Bạch Thế Tôn! Nếu các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế; các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra cũng chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế.

Bạch Thế Tôn! Nếu địa giới chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế; thủy, hỏa, phong, không, thức giới cũng chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế.

Bạch Thế Tôn! Nếu nhân duyên chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế; đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên cũng chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế.

Bạch Thế Tôn! Nếu pháp từ các duyên sanh ra chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế.

Bạch Thế Tôn! Nếu vô minh chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế; hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não cũng chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế.

Bạch Thế Tôn! Nếu bố thí Ba-la-mật-đa chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế; tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa cũng chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế.

Bạch Thế Tôn! Nếu bốn tịnh lự chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế; bốn vô lượng, bốn định vô sắc cũng chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế.

Bạch Thế Tôn! Nếu bốn niệm trụ chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế; bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lưc, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo cũng chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế.

Bạch Thế Tôn! Nếu pháp môn giải thoát không chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế; pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện cũng chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế.

Bạch Thế Tôn! Nếu pháp không nội chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế; pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh cũng chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế.

Bạch Thế Tôn! Nếu Thánh đế khổ chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế; Thánh đế tập, diệt, đạo cũng chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế.

Bạch Thế Tôn! Nếu tám giải thoát chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế; tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ cũng chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế.

Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế; tất cả pháp môn Tam-ma-địa cũng chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế.

Bạch Thế Tôn! Nếu bậc Cực hỷ chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế; bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân cũng chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế.

Bạch Thế Tôn! Nếu năm loại mắt chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế; sáu phép thần thông cũng chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế.

Bạch Thế Tôn! Nếu mười lực Phật chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế; bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng cũng chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế.

Bạch Thế Tôn! Nếu đại từ chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế; đại bi, đại hỷ, đại xả cũng chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế.

Bạch Thế Tôn! Nếu pháp không quên mất chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế; tánh luôn luôn xả cũng chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế.

Bạch Thế Tôn! Nếu trí nhất thiết chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế; trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng cũng chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế.

Bạch Thế Tôn! Nếu ba mươi hai tướng Đại sĩ chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế; tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc cũng chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế.

Bạch Thế Tôn! Nếu quả Dự lưu chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế; Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, quả vị Độc giác cũng chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế.

Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả hạnh Đại Bồ-tát chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế; quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật cũng chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế.

Bạch Thế Tôn! Nếu pháp thế gian chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế; pháp xuất thế gian cũng chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế.

Bạch Thế Tôn! Nếu pháp hữu lậu chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế; pháp vô lậu cũng chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế.

Bạch Thế Tôn! Nếu pháp hữu vi chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế; pháp vô vi cũng chẳng khác pháp giới, chơn như, thật tế, thì tại sao Thế Tôn an lập hắc pháp, chiêu cảm hắc dị thục, đó là địa ngục, bàng sanh, quỷ giới; an lập bạch pháp, chiêu cảm bạch dị thục, đó là thiên, nhơn; an lập hắc, bạch pháp, chiêu cảm hắc, bạch dị thục, đó là một phần bàng sanh, quỷ giới, một phần nhơn, thiên; an lập pháp chẳng phải hắc, chẳng phải bạch, chiêu cảm dị thục chẳng phải hắc, chẳng phải bạch, đó là quả Dự lưu, hoặc quả Nhất lai, hoặc quả Bất hoàn, hoặc quả A-la-hán, hoặc quả vị Độc giác, hoặc lại quả vị giác ngộ cao tột?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Y cứ vào thế tục đế an lập nhân quả sai biệt như thế, chẳng y cứ vào thắng nghĩa; trong thắng nghĩa đế, chẳng thể nói có nhân quả sai biệt. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì trong thắng nghĩa, tất cả pháp tánh chẳng thể phân biệt, không tuyên thuyết, không chỉ bày, thì làm sao có nhân quả sai biệt?

Này Thiện Hiện! Trong thắng nghĩa đế, sắc không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; thọ, tưởng, hành, thức cũng không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, vì tất cánh không, vô tế không.

Này Thiện Hiện! Trong thắng nghĩa đế, nhãn xứ không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, vì tất cánh không, vô tế không.

Này Thiện Hiện! Trong thắng nghĩa đế, sắc xứ không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, vì tất cánh không, vô tế không.

Này Thiện Hiện! Trong thắng nghĩa đế, nhãn giới không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, vì tất cánh không, vô tế không.

Này Thiện Hiện! Trong thắng nghĩa đế, sắc giới không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, vì tất cánh không, vô tế không.

Này Thiện Hiện! Trong thắng nghĩa đế, nhãn thức giới không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, vì tất cánh không, vô tế không.

Này Thiện Hiện! Trong thắng nghĩa đế, nhãn xúc không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc cũng không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, vì tất cánh không, vô tế không.

Này Thiện Hiện! Trong thắng nghĩa đế, các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra cũng không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, vì tất cánh không, vô tế không.

Này Thiện Hiện! Trong thắng nghĩa đế, địa giới không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; thủy, hỏa, phong, không, thức giới cũng không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, vì tất cánh không, vô tế không.

Này Thiện Hiện! Trong thắng nghĩa đế, nhân duyên không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên cũng không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, vì tất cánh không, vô tế không.

Này Thiện Hiện! Trong thắng nghĩa đế, pháp từ các duyên sanh ra không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, vì tất cánh không, vô tế không.

Này Thiện Hiện! Trong thắng nghĩa đế, vô minh không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não cũng không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, vì tất cánh không, vô tế không.

Này Thiện Hiện! Trong thắng nghĩa đế, bố thí Ba-la-mật-đa không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa cũng không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, vì tất cánh không, vô tế không.

Này Thiện Hiện! Trong thắng nghĩa đế, bốn tịnh lự không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; bốn vô lượng, bốn định vô sắc cũng không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, vì tất cánh không, vô tế không.

Này Thiện Hiện! Trong thắng nghĩa đế, bốn niệm trụ không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lưc, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo cũng không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, vì tất cánh không, vô tế không.

Này Thiện Hiện! Trong thắng nghĩa đế, pháp môn giải thoát không không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện cũng không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, vì tất cánh không, vô tế không.

Này Thiện Hiện! Trong thắng nghĩa đế, pháp không nội không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh cũng không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, vì tất cánh không, vô tế không.

Này Thiện Hiện! Trong thắng nghĩa đế, Thánh đế khổ không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; Thánh đế tập, diệt, đạo cũng không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, vì tất cánh không, vô tế không.

Này Thiện Hiện! Trong thắng nghĩa đế, tám giải thoát không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ cũng không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, vì tất cánh không, vô tế không.

Này Thiện Hiện! Trong thắng nghĩa đế, tất cả pháp môn Đà-la-ni không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; tất cả pháp môn Tam-ma-địa cũng không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, vì tất cánh không, vô tế không.

Này Thiện Hiện! Trong thắng nghĩa đế, bậc Cực hỷ không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân cũng không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, vì tất cánh không, vô tế không.

Này Thiện Hiện! Trong thắng nghĩa đế, năm loại mắt không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; sáu phép thần thông cũng không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, vì tất cánh không, vô tế không.

Này Thiện Hiện! Trong thắng nghĩa đế, mười lực Phật không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng cũng không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, vì tất cánh không, vô tế không.

Này Thiện Hiện! Trong thắng nghĩa đế, đại từ không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; đại bi, đại hỷ, đại xả cũng không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, vì tất cánh không, vô tế không.

Này Thiện Hiện! Trong thắng nghĩa đế, pháp không quên mất không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; tánh luôn luôn xả cũng không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, vì tất cánh không, vô tế không.

Này Thiện Hiện! Trong thắng nghĩa đế, trí nhất thiết không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng cũng không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, vì tất cánh không, vô tế không.

Này Thiện Hiện! Trong thắng nghĩa đế, ba mươi hai tướng Đại sĩ không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc cũng không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, vì tất cánh không, vô tế không.

Này Thiện Hiện! Trong thắng nghĩa đế, quả Dự lưu không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, quả vị Độc giác cũng không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, vì tất cánh không, vô tế không.

Này Thiện Hiện! Trong thắng nghĩa đế, tất cả hạnh Đại Bồ-tát không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật cũng không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, vì tất cánh không, vô tế không.

Này Thiện Hiện! Trong thắng nghĩa đế, pháp thế gian không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; pháp xuất thế gian cũng không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, vì tất cánh không, vô tế không.

Này Thiện Hiện! Trong thắng nghĩa đế, pháp hữu lậu không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; pháp vô lậu cũng không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, vì tất cánh không, vô tế không.

Này Thiện Hiện! Trong thắng nghĩa đế, pháp hữu vi không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; pháp vô vi cũng không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, vì tất cánh không, vô tế không.

Khi ấy cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu y cứ vào thế tục đế, an lập nhân quả sai biệt, chẳng y cứ vào thắng nghĩa đế thì tất cả phàm phu ngu si đáng lẽ đều có quả Dự lưu, hoặc đáng lẽ có quả Nhất lai, hoặc đáng lẽ có quả Bất hoàn, hoặc đáng lẽ có quả A-la-hán, hoặc đáng lẽ có quả vị Độc giác, hoặc đáng lẽ có quả vị giác ngộ cao tột?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao? Tất cả phàm phu ngu si có như thật biết thế tục đế và thắng nghĩa đế chăng? Nếu như thật biết thì đáng lẽ họ có quả Dự lựu, hoặc đáng lẽ có quả Nhất lai, hoặc đáng lẽ có quả Bất hoàn, hoặc đáng lẽ có quả A-la-hán, hoặc đáng lẽ có quả vị Độc giác, hoặc đáng lẽ có quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật. Nhưng các phàm phu ngu si chẳng như thật biết thế tục đế và thắng nghĩa đế, không có Thánh đạo, không tu Thánh đạo thì làm sao họ có Thánh quả sai biệt? chỉ có các bậc Thánh có khả năng như thật biết thế tục đế và thắng nghĩa đế, có Thánh đạo, có tu Thánh đạo. Vì vậy, có đắc Thánh quả sai biệt.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu tu Thánh đạo thì có đắc Thánh quả chăng?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Không! Chẳng phải tu Thánh đạo có thể đắc Thánh quả, cũng chẳng phải chẳng tu Thánh đạo có thể đắc Thánh quả, chẳng phải lìa Thánh đạo có thể đắc Thánh quả, cũng chẳng phải trụ trong Thánh đạo có thể đắc Thánh quả. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì trong thắng nghĩa đế, đạo và đạo quả chẳng thể nắm bắt được.

Này Thiện Hiện! Như thế, Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, tuy vì hữu tình an lập Thánh quả có các phẩm loại sai biệt, nhưng chẳng phân biệt Thánh quả ấy ở cảnh giới hữu vi, hoặc ở cảnh giới vô vi mà an lập sai biệt.

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu chẳng phân biệt Thánh quả như thế ở cảnh giới hữu vi hoặc cảnh giới vô vi mà an lập sai biệt thì tại sao Thế Tôn nói đoạn ba kiết gọi là quả Dự lưu; làm mỏng dục tham, sân gọi là quả Nhất lai; đoạn sạch năm kiết thuận hạ phần gọi là quả Bất hoàn; đoạn sạch năm kiết thuận thượng phần gọi là quả A-la-hán; khiến cho pháp tập đã có đều thành pháp diệt gọi là quả vị Độc giác; đoạn trừ vĩnh viễn tất cả tập khí tương tục gọi là quả vị giác ngộ cao tột?

Bạch Thế Tôn! Làm sao con biết nghĩa Phật đã nói là chẳng phân biệt Thánh quả như thế ở cảnh giới hữu vi, hoặc cảnh giới vô vi mà an lập sai biệt?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao? Các Thánh quả đã nói là quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, quả vị Độc giác, quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật, như thế là Thánh quả hữu vi hay là Thánh quả vô vi?

Thiện Hiện đáp:

- Thánh quả như thế đều là vô vi, chẳng phải là hữu vi.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Trong pháp vô vi, có phân biệt chăng?

Thiện Hiện đáp:

- Bạch Thế Tôn! Không! Bạch Thiện Thệ! Không!

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao? Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn thông đạt tất cả hữu vi, vô vi đều đồng một tướng, đó là vô tướng, thì thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy, ngay trong lúc đó, đối với các pháp có sự phân biệt đây là hữu vi, hoặc vô vi chăng?

Thiện Hiện đáp:

- Bạch Thế Tôn! Không! Bạch Thiện Thệ! Không!

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát cũng như thế, khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, tuy vì hữu tình tuyên thuyết các pháp nhưng chẳng phân biệt pháp tướng đã thuyết, đó là vì pháp không nội, hoặc vì pháp không ngoại, hoặc vì pháp không nội ngoại, hoặc vì pháp không không, hoặc vì pháp không lớn, hoặc vì pháp không thắng nghĩa, hoặc vì pháp không hữu vi, hoặc vì pháp không vô vi, hoặc vì pháp không rốt ráo, hoặc vì pháp không không biên giới, hoặc vì pháp không tản mạn, hoặc vì pháp không không đổi khác, hoặc vì pháp không bản tánh, hoặc vì pháp không tự tướng, hoặc vì pháp không cộng tướng, hoặc vì pháp không tất cả pháp, hoặc vì pháp không chẳng thể nắm bắt được, hoặc vì pháp không không tánh, hoặc vì pháp không tự tánh, hoặc vì pháp không không tánh tự tánh.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, đối với các pháp không có sự chấp trước, cũng luôn dạy người đối với các pháp không có sự chấp trước, đó là đối với bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa; hoặc đối với bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc; hoặc đối với bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lưc, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; hoặc đối với pháp không nội, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; hoặc đối với chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì; hoặc đối với Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo; hoặc đối với pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện; hoặc đối với tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; hoặc đối với tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa; hoặc đối với mười địa Bồ-tát; hoặc đối với năm loại mắt, sáu phép thần thông; hoặc đối với mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; hoặc đối với pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả; hoặc đối với trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng v.v... đều không chấp trước. Vì không chấp trước nên đối với tất cả xứ đều được vô ngại. Như hóa Phật mà chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác biến hóa, tuy hành bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nhưng đối với quả ấy chẳng thọ, chẳng trước, chỉ vì hữu tình ban Niết-bàn; tuy hành bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, nhưng đối với quả ấy chẳng thọ, chẳng trước, chỉ vì hữu tình ban Niết-bàn; tuy hành bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lưc, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, nhưng đối với quả ấy chẳng thọ, chẳng trước, chỉ vì hữu tình ban Niết-bàn; tuy hành pháp không nội, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, nhưng đối với quả ấy chẳng thọ, chẳng trước, chỉ vì hữu tình ban Niết-bàn; tuy hành chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì, nhưng đối với quả ấy chẳng thọ, chẳng trước, chỉ vì hữu tình ban Niết-bàn; tuy hành Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo, nhưng đối với quả ấy chẳng thọ, chẳng trước, chỉ vì hữu tình ban Niết-bàn; tuy hành pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện, nhưng đối với quả ấy chẳng thọ, chẳng trước, chỉ vì hữu tình ban Niết-bàn; tuy hành tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, nhưng đối với quả ấy chẳng thọ, chẳng trước, chỉ vì hữu tình ban Niết-bàn; tuy hành tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa, nhưng đối với quả ấy chẳng thọ, chẳng trước, chỉ vì hữu tình ban Niết-bàn; tuy hành mười địa Bồ-tát, nhưng đối với quả ấy chẳng thọ, chẳng trước, chỉ vì hữu tình ban Niết-bàn; tuy hành năm loại mắt, sáu phép thần thông, nhưng đối với quả ấy chẳng thọ, chẳng trước, chỉ vì hữu tình ban Niết-bàn; tuy hành mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, nhưng đối với quả ấy chẳng thọ, chẳng trước, chỉ vì hữu tình ban Niết-bàn; tuy hành pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả, nhưng đối với quả ấy chẳng thọ, chẳng trước, chỉ vì hữu tình ban Niết-bàn; tuy hành trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, nhưng đối với quả ấy chẳng thọ, chẳng trước, chỉ vì hữu tình ban Niết-bàn.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát cũng giống như thế, khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với tất cả pháp hoặc thế gian, hoặc xuất thế gian, hoặc hữu lậu, hoặc vô lậu, hoặc hữu vi, hoặc vô vi, đều không có chỗ trụ, cũng không có sự chướng ngại. Vì sao? Vì hoàn toàn đạt như thật tướng của các pháp.

 

 

Tập 07

 Quyển 383

 Phẩm Các Pháp Bình Đẳng 01

 

 

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Làm sao Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, đối với tất cả pháp hoàn toàn đạt thật tướng?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Như hóa Phật mà Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác hoá ra chẳng hành tham, chẳng hành sân, chẳng hành si; chẳng hành sắc, cũng chẳng hành thọ, tưởng, hành, thức; chẳng hành nhãn xứ, cũng chẳng hành nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ; chẳng hành sắc xứ, cũng chẳng hành thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ; chẳng hành nhãn giới, cũng chẳng hành nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới; chẳng hành sắc giới, cũng chẳng hành thanh, hương, vị, xúc, pháp giới; chẳng hành nhãn thức giới, cũng chẳng hành nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới; chẳng hành nhãn xúc, cũng chẳng hành nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc; chẳng hành các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cũng chẳng hành các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra; chẳng hành địa giới, cũng chẳng hành thủy, hỏa, phong, không, thức giới; chẳng hành nhân duyên, cũng chẳng hành đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên; chẳng hành pháp từ các duyên sanh ra; chẳng hành vô minh, cũng chẳng hành hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não; chẳng hành bố thí Ba-la-mật-đa, cũng chẳng hành tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa; chẳng hành bốn tịnh lự, cũng chẳng hành bốn vô lượng, bốn định vô sắc; chẳng hành bốn niệm trụ, cũng chẳng hành bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lưc, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; chẳng hành pháp môn giải thoát không, cũng chẳng hành pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; chẳng hành pháp không nội, cũng chẳng hành pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; chẳng hành chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì; chẳng hành Thánh đế khổ, cũng chẳng hành Thánh đế tập, diệt, đạo; chẳng hành tám giải thoát, cũng chẳng hành tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; chẳng hành tất cả pháp môn Đà-la-ni, cũng chẳng hành tất cả pháp môn Tam-ma-địa; chẳng hành bậc Cực hỷ, cũng chẳng hành bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân; chẳng hành năm loại mắt, cũng chẳng hành sáu phép thần thông; chẳng hành mười lực Phật, cũng chẳng hành bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng; chẳng hành đại từ, cũng chẳng hành đại bi, đại hỷ, đại xả; chẳng hành pháp không quên mất, cũng chẳng hành tánh luôn luôn xả; chẳng hành trí nhất thiết, cũng chẳng hành trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; chẳng hành ba mươi hai tướng đại sĩ, cũng chẳng hành tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc; chẳng hành quả Dự lưu, cũng chẳng hành quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, quả vị Độc giác; chẳng hành tất cả hạnh Đại Bồ-tát, cũng chẳng hành quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật; chẳng hành pháp nội, cũng chẳng hành pháp ngoại; chẳng hành tùy miên, cũng chẳng hành triền; chẳng hành pháp thế gian, cũng chẳng hành pháp xuất thế gian; chẳng hành pháp hữu lậu, cũng chẳng hành pháp vô lậu; chẳng hành pháp hữu vi, cũng chẳng hành pháp vô vi; chẳng hành đạo, cũng chẳng hành đạo quả.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, cũng giống như thế, đối với tất cả pháp, hoàn toàn không có sở hành. Như vậy là hoàn toàn đạt thật tướng các pháp, đó là đối với pháp tánh không phân biệt.

Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Người mà Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác biến hoá ra hiện tu Thánh đạo như thế nào?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Người mà Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác biến hoá đó nương vào và tu Thánh đạo chẳng nhiễm, chẳng tịnh, cũng chẳng luân hồi sanh tử trong năm đường.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Làm thế nào các Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, thông đạt các pháp đều không có thật?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao? Người mà chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác biến hoá ra là thật có, rồi y vào sự thật có ấy, có nhiễm, có tịnh, và có sự luân hồi trong năm đường chăng?

Thiện Hiện đáp:

- Bạch Thế Tôn! Không! Bạch Thiện Thệ! Không! Chẳng phải người mà chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác biến hoá ra có chút sự thật, chẳng phải nương vào việc ấy mà có nhiễm, có tịnh, cũng không luân hồi sanh tử trong năm đường.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, đối với tất cả pháp hoàn toàn thông đạt thật tướng, cũng giống như thế, thông đạt các pháp hoàn toàn không có thật sự.

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Có phải tất cả sắc đều như hóa chăng? Tất cả thọ, tưởng, hành, thức cũng như hóa chăng? Tất cả nhãn xứ đều như hóa chăng? Tất cả nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng như hóa chăng? Tất cả sắc xứ đều như hóa chăng? Tất cả thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng như hóa chăng? Tất cả nhãn giới đều như hóa chăng? Tất cả nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng như hóa chăng? Tất cả sắc giới đều như hóa chăng? Tất cả thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng như hóa chăng? Tất cả nhãn thức giới đều như hóa chăng? Tất cả nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng như hóa chăng? Tất cả nhãn xúc đều như hóa chăng? Tất cả nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc cũng như hóa chăng? Tất cả các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra đều như hóa chăng? Tất cả các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra cũng như hóa chăng? Tất cả địa giới đều như hóa chăng? Tất cả thủy, hỏa, phong, không, thức giới cũng như hóa chăng? Tất cả nhân duyên đều như hóa chăng? Tất cả đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên cũng như hóa chăng? Tất cả pháp từ duyên sanh ra đều như hóa chăng? Tất cả vô minh đều như hóa chăng? Tất cả hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não cũng như hóa chăng? Như thế cho đến tất cả pháp thế gian đều như hóa chăng? Tất cả pháp xuất thế gian cũng như hóa chăng? Tất cả pháp hữu lậu đều như hóa chăng? Tất cả pháp vô lậu cũng như hóa chăng? Tất cả pháp hữu vi đều như hóa chăng? Tất cả pháp vô vi cũng như hóa chăng?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói, tất cả pháp đều như hóa!

 

Quyển thứ 383

Hết

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
28/04/2016(Xem: 8678)
Năm 2013 vừa qua, chúng ta vừa cử hành trọng thể Lễ Kỷ Niệm 50 năm Bồ Tát Quảng Đức khắp nơi trên thế giới. Một con người vĩ đại với một hy sinh vĩ đại vì tiền đồ đạo pháp và dân tộc, không bút mực nào tả xiết, không có sự hy sinh nào có thể sánh bằng, thật như lời thơ của thi sĩ họ Vũ: “Một Mặt Trời Mới Mọc“.
25/04/2016(Xem: 12753)
Hôm nay Thứ bảy 23/4/2016, Chúng con môn đồ pháp quyến, đệ tử cung thỉnh Chư Tôn Thiền Đức Tăng, Ni quang lâm Chùa Duyên Giác, San Jose, CA, USA. Chứng Minh Lễ tưởng niệm Cung tiến Giác Linh cố Thượng Tọa Thích Minh Phát, Lễ Giổ tưởng niệm Ân Sư lần thứ 20, có sự Chứng Minh của Chư Tôn Đức: HT. Thích Minh Đạt, HT. Thích Thái Siêu, HT. Thích Nhựt Huệ, TT. Thích Tâm Phương, TT. Thích Đồng Trí, TT. Thích Minh Thiện, cùng Chư Tôn Đại Đức Tăng, Quý Sư Bà, TN. Nguyên Thanh, NS. TN. Như Phương, Ns. Tn. Quảng Tịnh, cùng chư tôn đức Ni, đáp lời cung thỉnh quang lâm chứng minh hộ niệm. Môn đồ Pháp quyến Thành kính đảnh lễ tri ân Quý Ngài, sau đây những hình ảnh được ghi lại.
14/04/2016(Xem: 14357)
HT Tăng Giáo Trưởng còn nổi tiếng là người trực tánh, nói thẳng, nhất là việc phá tà hiển chánh, những điều trái ý nghịch lòng HT ít khi giấu kín trong lòng. Một lần nọ, HT đến dự hội thảo về Giáo Dục tại Victoria Uni do GS Phan Văn Giưỡng mời, trong hội nghị trường có trên 20 Giáo Sư Đại Học khắp thế giới, một bà giáo sư đến từ Anh Quốc đứng lên chỉ trích giáo lý Bát Chánh Đạo của Phật Giáo, ý nói rằng Giáo lý này có gì hay ho đâu mà mỗi lần đến hội nghị cứ nghe các đại diện PG cứ nhắc đi nhắc lại hoài, thật là nhàm chán. HT Tăng Giáo Trưởng không dằn lòng được sự chỉ trích vô minh này, Ngài đã đứng lên hỏi ngay " thưa GS, GS làm nghề gì ? tôi dạy học " , " học trò của GS có hiểu bài GP giảng không ? có, vậy GS có đi ăn trộm không ? bà GS há hốc mồm khi nghe câu hỏi chói lỗ tai này. Nhưng HT đã chúc mừng bà GS đã sống theo giáo lý chánh nghiệp, chánh mạng, chánh ngữ, chánh tư duy của Bát Chánh Đạo rồi mà không hề biết, cả hội trường đều vỗ tay tán thán HT và bà GS sau đó đã đến xin lỗ
12/04/2016(Xem: 12489)
Trong phiên họp của Hội Đồng Điều Hành của GH vừa qua tại Khóa Tu Học Phật Pháp Úc Châu kỳ 15 tại Sydney, đã quyết định tổ chức Đại Lễ Tri Ân nhị vị Hòa Thượng Trưởng Lão của Giáo Hội là Trưởng Lão Tăng Giáo Trưởng HT Thích Huyền Tôn và Trưởng Lão Chứng Minh Đạo Sư HT Thích Như Huệ. Buổi lễ sẽ tổ chức long trọng trong dịp Chư Tôn Đức về dự Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17 của GH tại Tu Viện Quảng Đức, Melbourne, Úc Châu. Để cho buổi lễ tri ân được thập phần viên mãn, Ban Biên Tập Trang Nhà Quảng Đức xin gởi Thư Ngỏ này tha thiết kính thỉnh Chư Tôn Đức và quý Phật tử gần xa, hoan hỷ viết bài (thơ, văn, cảm niệm...) và gởi hình ảnh lưu niệm về nhị vị Trưởng Lão Hòa Thượng, nhất là những hình ảnh mang tính lịch sử như Lễ Đặt Đá Xây Dựng Chùa, các Khóa Tu, các kỳ Lễ lớn trong năm... tất cả những tài liệu này đều quý báu, ghi đậm dấu ấn bước chân hoằng pháp lợi sinh của nhị vị Trưởng Lão. Xin quý Ngài và quý vị hoan hỷ gởi tài liệu qua email: [email protected] trước ngày 20-04-2016 để Ban
26/03/2016(Xem: 8215)
Viên Giác tự – Chùa xưa còn đó mà Thầy đã quãy dép quy Tây Chùa Viên Giác tọa lạc trên một khu đất rộng trên đồi cao tại Cầu Đất, xã Xuân Trường, Tp Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng, cách trung tâm thành phố ngàn hoa khoảng chừng 30 km về hướng Đông Nam, trên độ cao 1650 m. Điểm nhấn của Cầu Đát có đồi chè với màu xanh ngắt ngút ngàn là một trong hai điểm đến mới nổi cực kỳ thu hút khách du lịch Đà Lạt tới tham quan. Trải dài trên diện tích 230 ha, đồi chè Cầu Đất dễ khiến những tín đồ của màu xanh lá phải bàng hoàng ngỡ ngàng trước cảnh sắc “đất xanh ngắt, trời xanh trong”. Thêm vào đó, không gian yên tĩnh, không khí mát lành cùng hương gió vấn vương vị chát chát đặc trưng của chè càng khiến Cầu Đất thêm phần hấp dẫn và lôi cuốn. Năm ở độ cao khoảng trên 1000m so với mực nước biển nên cảm nhận đầu tiên khi dừng chân tại chùa Viên Giác – Cầu Đát chính là nền nhiệt khác hẳn với quãng đường bạn đã băng qua trước đó. Vừa đến chân đồi việc đầu tiên cảm nhận được chính là sương mù. Đặc biệt vào nhữn
21/03/2016(Xem: 9882)
Chùa Đức Viên được Sư Bà Đàm Lựu sáng lập vào năm 1980. Sư Bà người làng Tam xá, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông, Việt Nam. Xuất gia từ nhỏ tại chùa Cự Đà, năm 1951, Sư Bà thọ giới Tỳ kheo ni tại chùa Quán Sứ, Hà Nội. Năm 1952, Sư Bà học đạo tại chùa Dược Sư, Sài Gòn. Năm 1964, Sư Bà đi du học ở Tây Đức. Năm 1979, Sư Bà đến Hoa Kỳ. Năm 1980, Sư Bà về thành phố San Jose hành đạo và sáng lập chùa Đức Viên. Sau 19 năm tận tụy, chăm lo việc đạo, việc đời, Sư Bà quy Tây năm 1999. Việc tiếp tục kiến tạo ngôi già lam trang nghiêm, an tịnh, nổi tiếng được các Ni sư Đàm Nhật, Ni sư Đức Hòa cùng Ni chúng và quý Phật tử tín tâm thực hiện trong nhiều năm qua.
11/03/2016(Xem: 29140)
Tin từ Thượng Tọa Thích Nguyên Đạt, Chùa Việt Nam, Texas, hôm Thứ Năm, 10-3-2016, cho biết rằng Thầy Thích Nhuận Châu, tại Thành Phố Tampa, Florida đã tịch vì tai nạn xe. Theo bản tin của trang mạng Đài Truyền Hình Bay News 9 hôm Thứ Tư, 9-3-2016, được cập nhật hôm Thứ Năm, 10-3, chi nói đến một người đàn ông 40 tuổi mà không cho biết danh tánh là ai, nhưng tin từ Thầy Nguyên Đạt cho biết đó là Thầy Thích Nhuận Châu. Sau đây là bản dịch tin của trang mạng Bay News 9.
17/02/2016(Xem: 8574)
Hoà thượng Thích Giải Trọng thế danh là Đinh Quý, sinh ngày mồng 06/11/Bính Tuất tại làng Ngọc Tứ, xã Thanh Phong, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, nay là thôn Ngọc Liên, xã Điện An, thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Con ông Đinh Tín, pháp danh Như Tín và bà Đoàn Thị Giảng pháp danh Thị Thuyết, một gia đình có truyền thống Phật Giáo. Hoà Thượng là con thứ 4 trong gia đình có 6 người anh em, 3 trai và 3 gái.
01/02/2016(Xem: 22142)
Nguyệt San Chánh Pháp, bộ mới, số 51 , tháng 2 năm 2016, • THƯ TÒA SOẠN, trang 2 • NGÀY XUÂN - LỄ PHẬT ĐẦU NĂM (Nguyên Siêu), trang 3 • HUYỀN NGHI, ÂM HƯỞNG, HOÀI CẢM (thơ Phù Du), trang 4 • Ý NIỆM VỀ MÙA XUÂN DI LẶC (Tuệ Như), trang 5 • TRÀ KHUYA & TRĂNG (thơ Mặc Phương Tử), trang 6 • ĐẦU NĂM NÓI CHUYỆN HÁI LỘC (Pháp Hỷ), trang 7 • ĐẦU XUÂN KÍNH NGUYỆN (thơ ĐNT Tín Nghĩa), trang 8 • MÙA XUÂN HOA NGHIÊM (Nguyễn Thế Đăng), trang 9 • BẢN HOÀI CỦA TU SĨ (Ns. Thích Nữ Trí Hải), trang 11 • BIỂN VÀ THƠ (thơ Minh Lương), trang 12 • SÁU PHÁP MÔN MẦU NHIỆM (Thích Thái Hòa), trang 13
01/02/2016(Xem: 15077)
“Đế Minh” là cháu ba đời Vua“Thần Nông”tuần thú, chuyển dời phương nam Đến núi Ngũ Lĩnh, (Hồ Nam) (1) Gặp nàng “Tiêngiới” lấy làm hân hoan Kết duyên chồng vợ vẹn toàn Sinh con: “Lộc Tục” hiền ngoan nhất đời “Đế Minh” quyết định truyền ngôi
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]