Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Quyển 297: Phẩm Ba-La-Mật-Đa 02, Phẩm Khó Nghe Công Đức 01

12/07/201511:32(Xem: 13723)
Quyển 297: Phẩm Ba-La-Mật-Đa 02, Phẩm Khó Nghe Công Đức 01

Tập 06

 Quyển 297

 Phẩm Ba-La-Mật-Đa 02

Bản dịch của HT Thích Trí Nghiêm

Diễn đọc: Cư Sĩ Chánh Trí



 

 

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa mười lực Phật.

Phật dạy: Như vậy là vì đạt được tất cả pháp khó khuất phục.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa bốn điều không sợ.

Phật dạy: Như vậy là vì đạt được trí đạo tướng không thối lui.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa bốn sự hiểu biết thông suốt.

Phật dạy: Như vậy là vì đạt được trí nhất thiết tướng không ngăn ngại.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa đại từ.

Phật dạy: Như vậy là vì làm an lạc tất cả hữu tình.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa đại bi.

Phật dạy: Như vậy là vì làm lợi ích tất cả hữu tình.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa đại hỷ.

Phật dạy: Như vậy là vì chẳng bỏ tất cả hữu tình.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa đại xả.

Phật dạy: Như vậy là vì tâm bình đẳng đối với các hữu tình.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa mười tám pháp Phật bất cộng.

Phật dạy: Như vậy là vì siêu vượt tất cả pháp Thanh-văn, Độc-giác.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa pháp không quên mất.

Phật dạy: Như vậy là vì pháp không quên mất chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa tánh luôn luôn xả.

Phật dạy: Như vậy là vì pháp luôn luôn xả chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa tất cả pháp môn Đà-la-ni.

Phật dạy: Như vậy là vì các pháp tổng trì chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa tất cả pháp môn Tam-ma-địa.

Phật dạy: Như vậy là vì các pháp đẳng trì chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa trí nhất thiết.

Phật dạy: Như vậy là vì pháp trí nhất thiết chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa trí đạo tướng.

Phật dạy: Như vậy là vì pháp trí đạo tướng chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa trí nhất thiết tướng.

Phật dạy: Như vậy là vì pháp trí nhất thiết tướng chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa tất cả hạnh đại Bồ-tát.

Phật dạy: Như vậy là vì pháp tất cả hạnh đại Bồ-tát chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật.

Phật dạy: Như vậy là vì pháp quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa Như Lai.

Phật dạy: Như vậy là vì có khả năng nói như thật tất cả pháp.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa tự nhiên.

Phật dạy: Như vậy là vì đối với tất cả pháp được tự tại.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa Chánh Đẳng Giác.

Phật dạy: Như vậy là vì đối với tất cả pháp có khả năng giác ngộ chơn chánh bình đẳng tất cả tướng.

 

Tập 06

 Quyển 297

 Phẩm Khó Nghe Công Đức 01

 

Khi ấy, trời Đế Thích nghĩ thế này: Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào đã từng đối với vô lượng các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác trong quá khứ, thân cận cúng dường, pháp nguyện rộng lớn, trồng các căn lành, được nhiều thiện tri thức nhiếp thọ thì nay mới được nghe danh tự công đức Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, huống là thường sao chép, đọc tụng, thọ trì, như lý tư duy, vì người diễn nói, hoặctùy sức như thuyết tu hành, nên biết người ấy đã ở chỗ vô lượng chư Phật trong quá khứ, thân cận thừa sự, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen, trồng các cội đức, từng nghe Bát-nhã-ba-la-mật-đa; nghe rồi thọ trì, tư duy, đọc tụng, vì người diễn nói, như giáo tu hành; hoặc đối với kinh này thường hỏi, đáp, do phước lực này, nên nay được như vậy.

Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào đã từng cúng dường vô lượng các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, công đức thuần tịnh, nghe Bát-nhã-ba-la-mật-đa này mà tâm chẳng kinh, chẳng sợ, chẳng hãi, nghe rồi tin ưa, như thuyết tu hành, thì nên biết người ấy nhiều ức kiếp đã từng tu tập bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, cho nên đời nay thành tựu được việc này.

Lúc bấy giờ, cụ thọ Xá Lợi Tử bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào nghe nghĩa thú sâu xa của Bát-nhã-ba-la-mật-đa này mà tâm chẳng kinh, chẳng sợ, chẳng hãi, nghe rồi sao chép, đọc tụng, thọ trì, như lý tư duy, vì người diễn nói, hoặc lại tùy lực như giáo tu hành, thì nên biết người ấy như các đại Bồ-tát ở địa vị bất thối. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy nghĩa thú sâu xa, rất khó tin hiểu; nếu đời trước chẳng tu tập lâu dài bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, thì đâu có thể được nghe và tức thời tin hiểu.

Bạch Thế Tôn! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà chê bai phỉ báng thì nên biết người ấy đời trước đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa này cũng đã từng hủy báng. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Vì thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như vậy, do tập khí đời trước, nên chẳng tin, chẳng ưa, tâm chẳng thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy chưa từng thân cận chư Phật Bồ-tát và chúng đệ tử, chưa từng thưa hỏi là nên hành bố thí Ba-la-mật-đa như thế nào, nên hành tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa như thế nào; nên trụ pháp không nội như thế nào, nên trụ pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh như thế nào; nên trụ chơn như như thế nào, nên trụ pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì như thế nào; nên trụ Thánh đế khổ như thế nào, nên trụ Thánh đế tập, diệt, đạo như thế nào; nên tu bốn tịnh lự như thế nào, nên tu bốn vô lượng, bốn định vô sắc như thế nào; nên tu tám giải thoát như thế nào, nên tu tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ như thế nào; nên tu bốn niệm trụ như thế nào, nên tu bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo như thế nào; nên tu pháp môn giải thoát không như thế nào, nên tu pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện như thế nào; nên tu năm loại mắt như thế nào, nên tu sáu phép thần thông như thế nào; nên tu mười lực Phật như thế nào, nên tu bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng như thế nào; nên tu pháp không quên mất như thế nào, nên tu tánh luôn luôn xả như thế nào; nên tu trí nhất thiết như thế nào, nên tu trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng như thế nào; nên tu tất cả pháp môn Đà-la-ni như thế nào, nên tu tất cả pháp môn Tam-ma-địa như thế nào; nên tu tất cả hạnh đại Bồ-tát như thế nào; nên tu quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật như thế nào, nên nay nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa thì chê bai, phỉ báng, chẳng tin, chẳng ưa, tâm chẳng thanh tịnh.

Bấy giờ, trời Đế Thích thưa với Xá Lợi Tử: Thưa Đại đức! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy, nghĩa thú sâu xa rất khó tin, khó hiểu. Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào đối với bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa từ lâu chưa tin hiểu, từ lâu chưa tu tập thì nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng thể tin hiểu, hoặc sanh hủy báng là việc có thể xảy ra.

Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào đối với pháp không nội, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, từ lâu chưa từng tin hiểu, từ lâu chẳng an trụ thì nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng thể tin hiểu, hoặc sanh hủy báng là việc có thể xảy ra.

Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào đối với chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì từ lâu chưa tin hiểu, từ lâu chưa an trụ thì nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng thể tin hiểu, hoặc sanh hủy báng là việc có thể xảy ra.

Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào đối với bốn Thánh đế từ lâu chưa tin hiểu, từ lâu chẳng an trụ thì khi nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng thể tin hiểu, hoặc sanh hủy báng là việc có thể xảy ra.

Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào đối với bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, hoặc tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, hoặc bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, hoặc pháp môn giải thoát không, pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, hoặc mười địa Bồ-tát từ lâu chưa tin hiểu, từ lâu chẳng tu tập thì khi nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng thể tin hiểu, hoặc sanh hủy báng là việc có thể xảy ra.

Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào đối với năm loại mắt, sáu phép thần thông, hoặc mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, hoặc pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả, hoặc trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, hoặc tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa từ lâu chưa tin hiểu, từ lâu chẳng tu tập thì nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng thể tin hiểu, hoặc sanh hủy báng là việc có thể xảy ra.

Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào đối với các hạnh đại Bồ-tát, hoặc quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật từ lâu chưa tin hiểu, từ lâu chẳng tu tập thì khi nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng thể tin hiểu, hoặc sanh hủy báng là việc có thể xảy ra.

Thưa Đại đức! Con nay kính lễ Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa; kính lễ Bát-nhã-ba-la-mật-đa tức là kính lễ trí nhất thiết trí.

Bấy giờ, Phật bảo trời Đế Thích: Này Kiều Thi Ca! Đúng vậy! Đúng vậy! Như lời ông nói, kính lễ Bát-nhã-ba-la-mật-đa tức là kính lễ trí nhất thiết trí. Vì sao? Này Kiều Thi Ca! Vì trí nhất thiết trí của chư Phật Thế Tôn đều từ Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà được phát sanh.

Này Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào muốn an trụ trí nhất thiết trí của chư Phật thì nên an trụ Bát-nhã-ba-la-mật-đa muốn khởi trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng thì nên học Bát-nhã-ba-la-mật-đa; muốn đoạn tất cả phiền não tập khí thì nên học Bát-nhã-ba-la-mật-đa; muốn chứng quả vị giác ngộ cao tột, chuyển pháp luân mầu nhiệm, độ vô lượng chúng, thì nên học Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào muốn dùng phương tiện thiện xảo để an lập hữu tình ở quả Dự-lưu, hoặc quả Nhất-lai, hoặc quả Bất-hoàn, hoặc quả A-la-hán, hoặc quả vị Độc-giác, hoặc muốn tự học thì nên học Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào muốn dùng phương tiện thiện xảo để an lập hữu tình ở quả vị giác ngộ cao tột của Phật thì nên học Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào muốn dùng phương tiện thiện xảo để an lập hữu tình ở các hạnh đại Bồ-tát khiến không thối chuyển, hoặc muốn tự tu hành thì nên học Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Nếu đại Bồ-tát muốn hàng phục chúng ma, dẹp bỏ ngoại đạo thì nên học Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Nếu đại Bồ-tát muốn khéo nhiếp thọ các Bí-sô Tăng thì nên học Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Bấy giờ, trời Đế Thích bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì an trụ sắc như thế nào, an trụ thọ, tưởng, hành, thức như thế nào? Tu tập sắc như thế nào, tu tập thọ, tưởng, hành, thức như thế nào? An trụ nhãn xứ như thế nào, an trụ nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ như thế nào? Tu tập nhãn xứ như thế nào, tu tập nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ như thế nào? An trụ sắc xứ như thế nào, an trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ như thế nào? Tu tập sắc xứ như thế nào, tu tập thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ như thế nào? An trụ nhãn giới như thế nào, an trụ sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra như thế nào? Tu tập nhãn giới như thế nào, tu tập sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra như thế nào? An trụ nhĩ giới như thế nào, an trụ thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra như thế nào? Tu tập nhĩ giới như thế nào, tu tập thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra như thế nào? An trụ tỷ giới như thế nào, an trụ hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra như thế nào? Tu tập tỷ giới như thế nào, tu tập hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra như thế nào? An trụ thiệt giới như thế nào, an trụ vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra như thế nào? Tu tập thiệt giới như thế nào, tu tập vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra như thế nào? An trụ thân giới như thế nào, an trụ xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra như thế nào? Tu tập thân giới như thế nào, tu tập xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra như thế nào? An trụ ý giới như thế nào, an trụ pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra như thế nào? Tu tập ý giới như thế nào, tu tập pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra như thế nào? An trụ địa giới như thế nào, an trụ thủy, hỏa, phong, không, thức giới như thế nào? Tu tập địa giới như thế nào, tu tập thủy, hỏa, phong, không, thức giới như thế nào? An trụ vô minh như thế nào, an trụ hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não như thế nào? Tu tập vô minh như thế nào, tu tập hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não như thế nào? An trụ bố thí Ba-la-mật-đa như thế nào, an trụ tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế nào? Tu tập bố thí Ba-la-mật-đa như thế nào, tu tập tịnh giới cho đến Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế nào? An trụ pháp không nội như thế nào, an trụ pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh như thế nào? Tu tập pháp không nội như thế nào, tu tập pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh như thế nào? An trụ chơn như như thế nào, an trụ pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì như thế nào? Tu tập chơn như như thế nào, tu tập pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì như thế nào? An trụ Thánh đế khổ như thế nào, an trụ Thánh đế tập, diệt, đạo như thế nào? Tu tập Thánh đế khổ như thế nào, tu tập Thánh đế tập, diệt, đạo như thế nào? An trụ bốn tịnh lự như thế nào, an trụ bốn vô lượng, bốn định vô sắc như thế nào? Tu tập bốn tịnh lự như thế nào, tu tập bốn vô lượng, bốn định vô sắc như thế nào? An trụ tám giải thoát như thế nào, an trụ tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ như thế nào? Tu tập tám giải thoát như thế nào, tu tập tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ như thế nào? An trụ bốn niệm trụ như thế nào, an trụ bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo như thế nào? Tu tập bốn niệm trụ như thế nào, tu tập bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo như thế nào? An trụ pháp môn giải thoát không như thế nào, an trụ pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện như thế nào? Tu tập pháp môn giải thoát không như thế nào, tu tập pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện như thế nào? An trụ mười địa Bồ-tát như thế nào? Tu tập mười địa Bồ-tát như thế nào? An trụ năm loại mắt như thế nào, an trụ sáu phép thần thông như thế nào? Tu tập năm loại mắt như thế nào, tu tập sáu phép thần thông như thế nào? An trụ mười lực Phật như thế nào, an trụ bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng như thế nào? Tu tập mười lực của Phật như thế nào, tu tập bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng như thế nào? An trụ pháp không quên mất như thế nào, an trụ tánh luôn luôn xả như thế nào? Tu tập pháp không quên mất như thế nào, tu tập tánh luôn luôn xả như thế nào? An trụ trí nhất thiết như thế nào, an trụ trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng như thế nào? Tu tập trí nhất thiết như thế nào, tu tập trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng như thế nào? An trụ tất cả pháp môn Đà-la-ni như thế nào, an trụ tất cả pháp môn Tam-ma-địa như thế nào? Tu tập tất cả pháp môn Đà-la-ni như thế nào, tu tập tất cả pháp môn Tam-ma-địa như thế nào? An trụ quả Dự-lưu như thế nào, an trụ quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán như thế nào? Tu tập quả Dự-lưu như thế nào, tu tập quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán như thế nào? An trụ quả vị Độc-giác như thế nào? Tu tập quả vị Độc-giác như thế nào? An trụ tất cả hạnh đại Bồ-tát như thế nào? Tu tập tất cả hạnh đại Bồ-tát như thế nào? An trụ quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật như thế nào? Tu tập quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật như thế nào?

Bấy giờ, Phật bảo trời Đế Thích: Này Kiều Thi Ca! Hay thay! Hay thay! Ông nay nương vào thần lực của Phật nên có thể hỏi Như Lai ý nghĩa sâu xa như thế. Hãy lắng nghe! Hãy lắng nghe và suy nghĩ chín chắn, ta sẽ nói cho ông nghe.

Này Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu đối với sắc chẳng an trụ, chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập sắc; nếu đối với thọ, tưởng, hành, thức chẳng an trụ, chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập thọ, tưởng, hành, thức. Vì sao? Này Kiều Thi Ca! Vì sắc cho đến thức để an trụ, tu tập ấy, chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu đối với nhãn xứ chẳng an trụ, chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập nhãn xứ; nếu đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng an trụ, chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ. Vì sao? Này Kiều Thi Ca! Vì nhãn xứ cho đến ý xứ để an trụ, tu tập ấy, chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu đối với sắc xứ chẳng an trụ, chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập sắc xứ; nếu đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng an trụ, chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ. Vì sao? Này Kiều Thi Ca! Vì sắc xứ cho đến pháp xứ để an trụ, tu tập ấy, chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu đối với nhãn giới chẳng an trụ, chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập nhãn giới; nếu đối với sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra chẳng an trụ, chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra. Vì sao? Này Kiều Thi Ca! Vì nhãn giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra để an trụ, tu tập ấy, chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu đối với nhĩ giới chẳng an trụ, chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập nhĩ giới; nếu đối với thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra chẳng an trụ, chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra. Vì sao? Này Kiều Thi Ca! Vì nhĩ giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra để an trụ, tu tập ấy, chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu đối với tỷ giới chẳng an trụ, chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập tỷ giới; nếu đối với hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra chẳng an trụ, chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra. Vì sao? Này Kiều Thi Ca! Vì tỷ giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra để an trụ, tu tập ấy, chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu đối với thiệt giới chẳng an trụ, chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập thiệt giới; nếu đối với vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra chẳng an trụ, chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra. Vì sao? Này Kiều Thi Ca! Vì thiệt giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra để an trụ, tu tập ấy, chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu đối với thân giới chẳng an trụ, chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập thân giới; nếu đối với xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra chẳng an trụ, chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra. Vì sao? Này Kiều Thi Ca! Vì thân giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra để an trụ, tu tập ấy, chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu đối với ý giới chẳng an trụ, chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập ý giới; nếu đối với pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra chẳng an trụ, chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra. Vì sao? Này Kiều Thi Ca! Vì ý giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra để an trụ, tu tập ấy, chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu đối với địa giới chẳng an trụ, chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập địa giới; nếu đối với thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng an trụ, chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập thủy, hỏa, phong, không, thức giới. Vì sao? Này Kiều Thi Ca! Vì địa giới cho đến thức giới để an trụ, tu tập ấy, chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu đối với vô minh chẳng an trụ, chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập vô minh; nếu đối với hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não chẳng an trụ, chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não. Vì sao? Này Kiều Thi Ca! Vì vô minh cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não để an trụ, tu tập ấy, chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu đối với bố thí Ba-la-mật-đa chẳng an trụ, chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập bố thí Ba-la-mật-đa; nếu đối với tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa chẳng an trụ, chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập tịnh giới cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Kiều Thi Ca! Vì bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa để an trụ, tu tập ấy, chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu đối với pháp không nội chẳng an trụ, chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập pháp không nội; nếu đối với pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh chẳng an trụ, chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh. Vì sao? Này Kiều Thi Ca! Vì pháp không nội cho đến pháp không không tánh tự tánh để an trụ, tu tập ấy, chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu đối với chơn như chẳng an trụ, chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập chơn như; nếu đối với pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì chẳng an trụ, chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì. Vì sao? Này Kiều Thi Ca! Vì chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì để an trụ, tu tập ấy, chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu đối với Thánh đế khổ chẳng an trụ, chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập Thánh đế khổ; nếu đối với Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng an trụ, chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập Thánh đế tập, diệt, đạo. Vì sao? Này Kiều Thi Ca! Vì Thánh đế khổ, Thánh đế tập, diệt, đạo để an trụ, tu tập ấy, chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu đối với bốn tịnh lự chẳng an trụ, chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập bốn tịnh lự; nếu đối với bốn vô lượng, bốn định vô sắc chẳng an trụ, chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Vì sao? Này Kiều Thi Ca! Vì bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc để an trụ, tu tập ấy, chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu đối với tám giải thoát chẳng an trụ, chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập tám giải thoát; nếu đối với tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ chẳng an trụ, chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ. Vì sao? Này Kiều Thi Ca! Vì tám giải thoát cho đến mười biến xứ để an trụ, tu tập ấy, chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu đối với bốn niệm trụ chẳng an trụ, chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập bốn niệm trụ; nếu đối với bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo chẳng an trụ, chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo. Vì sao? Này Kiều Thi Ca! Vì bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo để an trụ, tu tập ấy, chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu đối với pháp môn giải thoát không chẳng an trụ, chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập pháp môn giải thoát không; nếu đối với pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện chẳng an trụ, chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện. Vì sao? Này Kiều Thi Ca! Vì pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện để an trụ, tu tập ấy, chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu đối với mười địa Bồ-tát chẳng an trụ, chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập mười địa Bồ-tát. Vì sao? Này Kiều Thi Ca! Vì mười địa Bồ-tát để an trụ, tu tập ấy, chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu đối với năm loại mắt chẳng an trụ, chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập năm loại mắt; nếu đối với sáu phép thần thông chẳng an trụ, chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập sáu phép thần thông. Vì sao? Này Kiều Thi Ca! Vì năm loại mắt, sáu phép thần thông để an trụ, tu tập ấy, chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu đối với mười lực Phật chẳng an trụ, chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập mười lực Phật; nếu đối với bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng chẳng an trụ, chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Vì sao? Này Kiều Thi Ca! Vì mười lực Phật cho đến mười tám pháp Phật bất cộng để an trụ, tu tập ấy, chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu đối với pháp không quên mất chẳng an trụ, chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập pháp không quên mất; nếu đối với tánh luôn luôn xả chẳng an trụ, chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập tánh luôn luôn xả. Vì sao? Này Kiều Thi Ca! Vì pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả để an trụ, tu tập ấy, chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu đối với trí nhất thiết chẳng an trụ, chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập trí nhất thiết; nếu đối với trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng chẳng an trụ, chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Vì sao? Này Kiều Thi Ca! Vì trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng để an trụ, tu tập ấy, chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu đối với tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng an trụ, chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập tất cả pháp môn Đà-la-ni; nếu đối với tất cả pháp môn Tam-ma-địa chẳng an trụ, chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập tất cả pháp môn Tam-ma-địa. Vì sao? Này Kiều Thi Ca! Vì tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa để an trụ, tu tập ấy, chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu đối với quả Dự-lưu chẳng an trụ, chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập quả Dự-lưu; nếu đối với quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán chẳng an trụ, chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán. Vì sao? Này Kiều Thi Ca! Vì quả Dự-lưu, Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán để an trụ, tu tập ấy, chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu đối với quả vị Độc-giác chẳng an trụ, chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập quả vị Độc-giác. Vì sao? Này Kiều Thi Ca! Vì quả vị Độc-giác để an trụ, tu tập ấy, chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu đối với tất cả hạnh đại Bồ-tát chẳng an trụ, chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập tất cả hạnh đại Bồ-tát. Vì sao? Này Kiều Thi Ca! Vì tất cả hạnh đại Bồ-tát để an trụ, tu tập ấy, chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu đối với quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật chẳng an trụ, chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật. Vì sao? Này Kiều Thi Ca! Vì quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật để an trụ, tu tập ấy, chẳng thể nắm bắt được.

Lại nữa, này Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu đối với sắc chẳng an trụ, chẳng phải chẳng an trụ, chẳng tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập sắc; nếu đối với thọ, tưởng, hành, thức chẳng an trụ, chẳng phải chẳng an trụ, chẳng tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập thọ, tưởng, hành, thức. Vì sao? Này Kiều Thi Ca! Vì đại Bồ-tát ấy quán sắc cho đến thức ở khoảng trước, sau, giữa đều chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu đối với nhãn xứ chẳng an trụ, chẳng phải chẳng an trụ, chẳng tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập nhãn xứ; nếu đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng an trụ, chẳng phải chẳng an trụ, chẳng tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ. Vì sao? Này Kiều Thi Ca! Vì đại Bồ-tát ấy quán nhãn xứ cho đến ý xứ ở khoảng trước, sau, giữa đều chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu đối với sắc xứ chẳng an trụ, chẳng phải chẳng an trụ, chẳng tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập sắc xứ; nếu đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng an trụ, chẳng phải chẳng an trụ, chẳng tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ. Vì sao? Này Kiều Thi Ca! Vì đại Bồ-tát ấy quán sắc xứ cho đến pháp xứ ở khoảng trước, sau, giữa đều chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu đối với nhãn giới chẳng an trụ, chẳng phải chẳng an trụ, chẳng tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập nhãn giới; nếu đối với sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra chẳng an trụ, chẳng phải chẳng an trụ, chẳng tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra. Vì sao? Này Kiều Thi Ca! Vì đại Bồ-tát ấy quán nhãn giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra ở khoảng trước, sau, giữa đều chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu đối với nhĩ giới chẳng an trụ, chẳng phải chẳng an trụ, chẳng tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập nhĩ giới; nếu đối với thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra chẳng an trụ, chẳng phải chẳng an trụ, chẳng tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra. Vì sao? Này Kiều Thi Ca! Vì đại Bồ-tát ấy quán nhĩ giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra ở khoảng trước, sau, giữa đều chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu đối với tỷ giới chẳng an trụ, chẳng phải chẳng an trụ, chẳng tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập tỷ giới; nếu đối với hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra chẳng an trụ, chẳng phải chẳng an trụ, chẳng tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra. Vì sao? Này Kiều Thi Ca! Vì đại Bồ-tát ấy quán tỷ giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra ở khoảng trước, sau, giữa đều chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu đối với thiệt giới chẳng an trụ, chẳng phải chẳng an trụ, chẳng tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập thiệt giới; nếu đối với vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra chẳng an trụ, chẳng phải chẳng an trụ, chẳng tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra. Vì sao? Này Kiều Thi Ca! Vì đại Bồ-tát ấy quán thiệt giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra ở khoảng trước, sau, giữa đều chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu đối với thân giới chẳng an trụ, chẳng phải chẳng an trụ, chẳng tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập thân giới; nếu đối với xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra chẳng an trụ, chẳng phải chẳng an trụ, chẳng tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra. Vì sao? Này Kiều Thi Ca! Vì đại Bồ-tát ấy quán thân giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra ở khoảng trước, sau, giữa đều chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu đối với ý giới chẳng an trụ, chẳng phải chẳng an trụ, chẳng tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập ý giới; nếu đối với pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra chẳng an trụ, chẳng phải chẳng an trụ, chẳng tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra. Vì sao? Này Kiều Thi Ca! Vì đại Bồ-tát ấy quán ý giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra ở khoảng trước, sau, giữa đều chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu đối với địa giới chẳng an trụ, chẳng phải chẳng an trụ, chẳng tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập địa giới; nếu đối với thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng an trụ, chẳng phải chẳng an trụ, chẳng tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập thủy, hỏa, phong, không, thức giới. Vì sao? Này Kiều Thi Ca! Vì đại Bồ-tát ấy quán địa giới cho đến thức giới ở khoảng trước, sau, giữa đều chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu đối với vô minh chẳng an trụ, chẳng phải chẳng an trụ, chẳng tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập vô minh; nếu đối với hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não chẳng an trụ, chẳng phải chẳng an trụ, chẳng tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não. Vì sao? Này Kiều Thi Ca! Vì đại Bồ-tát ấy quán vô minh cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não ở khoảng trước, sau, giữa đều chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu đối với bố thí Ba-la-mật-đa chẳng an trụ, chẳng phải chẳng an trụ, chẳng tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập bố thí Ba-la-mật-đa; nếu đối với tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa chẳng an trụ, chẳng phải chẳng an trụ, chẳng tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập tịnh giới cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Kiều Thi Ca! Vì đại Bồ-tát ấy quán bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa ở khoảng trước, sau, giữa đều chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu đối với pháp không nội chẳng an trụ, chẳng phải chẳng an trụ, chẳng tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập pháp không nội; nếu đối với pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh chẳng an trụ, chẳng phải chẳng an trụ, chẳng tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh. Vì sao? Này Kiều Thi Ca! Vì đại Bồ-tát ấy quán pháp không nội cho đến pháp không không tánh tự tánh ở khoảng trước, sau, giữa đều chẳng thể nắm bắt được.

Quyển thứ 297

Hết

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/02/2013(Xem: 18214)
Nửa thế kỷ Tôn Sư vắng bóng, Ánh Đạo Vàng tỏa rộng muôn phương Hôm nay tổ chức huy hoàn Hằng năm kỷ niệm, đàn tràng tôn nghiêm. Môn đồ Tứ chúng ngưỡng chiêm,
06/02/2013(Xem: 7651)
Hòa thượng Bích Liên, thế danh là Nguyễn Trọng Khải, hiệu Mai Đình (Thận Thần Thị), sinh ngày 16 tháng 3 năm Bính Tý (1876), tại làng Háo Đức, phủ An Nhơn, nay là ấp Háo Đức, xã Nhơn An, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Ngài sinh trưởng trong một gia đình nho học, được theo nghiệp bút nghiên từ nhỏ. Cha là Tú Tài Nguyễn Tự, mẹ là bà Lâm Thị Hòa Nghị . Năm 20 tuổi, Ngài lập gia đình với cô Lê Thị Hồng Kiều, người làng An Hòa, (nay thuộc xã Nhơn Khánh cùng huyện). Năm 31 tuổi, Ngài lều chõng vào trường thi Hương Bình Định và đỗ Tú Tài. Ba năm sau, Ngài lại đỗ Tú Tài lần nữa. Từ đó, biết mình long đong trên bước đường khoa bảng, Ngài giã từ lều chõng, ở nhà mở trường dạy học, mượn trăng thanh gió mát di dưỡng tính tình, lấy chén rượu câu thơ vui cùng tuế nguyệt.
03/02/2013(Xem: 6477)
Tuệ Sỹ là ai mà thơ hào sảng, hùng tâm tráng khí như thế ? Tuệ Sỹ quê Quảng Bình, sinh năm 1943, nhỏ hơn Phạm Công Thiện 2 tuổi, cũng là một bậc thiên tài xuất chúng, làu thông kinh điển Nguyên thủy, Đại thừa và nhiều thứ tiếng Anh, Pháp, Đức, Hán, Phạn, Pali. Khi mới vừa 26 tuổi đã viết Triết học về Tánh Không làm chấn động giới văn nghệ sĩ, học giả, thiện tri thức Việt Nam thời bấy giờ.
20/01/2013(Xem: 5958)
Phạm Công Thiện(1/6/1941 - 8/3/2011), là một nhà văn, triết gia, học giả, thi sĩ và cư sĩ Phật Giáo người Việt Nam với pháp danh Thích Nguyên Tánh. Tuy nhận mình là nhà thơ và phủ nhận nghề triết gia, ông vẫn được coi là một triết gia thần đồng, một hiện tượng dị thường của Sài Gòn thập niên 60 và của Việt Nam với những tư tưởng ít người hiểu và được bộc phát từ hồi còn rất trẻ. Dưới đây là bài viết của Tâm Nhiên nhân sắp đến ngày giỗ của ông.
12/01/2013(Xem: 6517)
Đã có rất nhiều sách vở, bài viết hoặc với tính chất nghiên cứu, hoặc là các bài giảng phổ cập bàn về tông Thiên Thai và kinh Pháp Hoa. Bài viết này nói đến vai trò, vị trí của Đại sư Trí Khải và tông Thiên Thai trong lịch sử Phật giáo, cũng như trong nền văn hóa tư tưởng của toàn thể nhân loại. Đại sư Trí Khải sinh năm 538, vào thời đại mà sau này các sử gia gọi là Nam Bắc triều (220-589). Sông Dương Tử được lấy làm gianh giới phân chia giữa hai miền Nam và Bắc. Trong thiền sử, ta thường nghe nói đến câu Nam Năng (Huệ Năng)-Bắc Tú (Thần Tú), để phân biệt hai dòng thiền: Đại sư Thần Tú xiển dương Thiền tiệm ngộ ngay tại Trường An; Đại sư Huệ Năng phát triển Thiền đốn ngộ tại vùng Quảng Đông và lân cận. Bấy giờ Trung Hoa bị chia thành nhiều nước nhỏ, nước này xâm lăng và thôn tính nước kia, gây nên nhiều cuộc chiến tương tàn, dân chúng sống trong cảnh lầm than đau khổ.
07/01/2013(Xem: 7114)
Phần lớn độc giả biết nhiều đến các tiểu luận và các tập thơ phản chiến, nhưng ít người biết đến những bài thơ Thiền của Nhất Hạnh. Tôi xin trích một bài được nhà xuất bản Unicorn Press xuất bản trong tâp thơ Zen Poems của Nhất Hạnh vào năm 1976 (bản dịch Anh Ngữ) của Võ Đình. Bài này được in vào tuyển tập thơ nhạc họa vào mùa Phật Đản 1964
10/12/2012(Xem: 6923)
Cả cuộc đời 86 tuổi của Ngài Đội trời đạp đất, đã tròn chưa bản nguyện Kiếp tu hành 81 năm của Ngài Gánh vác hy sinh...
09/10/2012(Xem: 11124)
Thiền sư Lê Mạnh Thátcho rằng Vua Trần Nhân Tông là một nhân vật tiêu biểu trong lịch sử Việt Nam nhất là vì tư tưởng hòa giải dân tộc của ông vẫn còn tính thời sự. Trả lời câu hỏi của BBC vì sao tư tưởng của Trần Nhân Tông (trị vì từ năm 1278-1293) và là Phật Hoàng, sáng lập ra phái thiền phái Trúc Lâm vẫn còn có tính thời sự đối với Việt Nam và cả quan hệ Mỹ - Việt cũng như Việt - Trung, Tiến sỹ Lê Mạnh Thát nói:
01/10/2012(Xem: 6184)
Kính bạch Giác Linh Đức Thầy, Dẫu biết rằng: “Cuộc đời là ảo mộng, vạn vật vốn vô thường, chuyển di không ngừng nghỉ, biến diệt lẽ tự nhiên, tử sanh không tránh khỏi.” Nhưng ân đức cao dày, tình thương nồng thắm, Đức Thầy đã ban cho hàng đệ tử chúng con, chẳng những được kết thành giới thân huệ mạng, mà còn mang lại cho cuộc đời giải thoát của chúng con vô vàn hạnh phúc… Ân đức ấy, mãi mãi khắc sâu vào cuộc đời tu học của chúng con vô cùng vững chắc, dù cho thời gian, sự vô thường có thay đổi...
22/09/2012(Xem: 6747)
Ni sư Thích Nữ Như Phụng nguyên là viện chủ chùa Long Vân , sinh tiền Ni sư là cố vấn ni chúng chùa Long Vân , làm Hóa chủ trường hạ trong 6 năm , trưởng phòng châm cứu từ thiện của chùa,thành viên mặt trận tổ quốc xã Tam Phước , trưởng bếp cơm từ thiện Bệnh viện đa khoa Long Thành. Suốt cả cuộc đời ni sư tận tụy cho sự nghiệp tu hành và hoằng dương Đạo pháp , một lòng chuyên tâm Niệm Phật A Di Đà , công quả viên mãn Ni sư an nhiên tự tại vãng sanh trong lúc đứng Niệm Phật cùng đại chúng trên Đại hùng bảo điện không gian tràn ngập hương cúng dường thanh tịnh .Sau khi làm lễ trà tì ngài để lại rất nhiều xá lợi minh chứng cho công đức tu hành tinh nghiêm của một vị cao ni.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]