Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Quyển 98: Phẩm Cầu Bát Nhã 10, Phẩm Thán Chúng Công Đức 1

07/07/201516:53(Xem: 14663)
Quyển 98: Phẩm Cầu Bát Nhã 10, Phẩm Thán Chúng Công Đức 1

Tập 02
Quyển 98
Phẩm Cầu Bát Nhã 10
Bản dịch của HT Thích Trí Nghiêm
Diễn đọc: Cư Sĩ Chánh Trí



 

Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng nên cầu nơi pháp tánh của Độc-giác, chẳng nên cầu nơi pháp tánh của Độc-giác hướng, Độc-giác quả; chẳng nên lìa pháp tánh của Độc-giác mà cầu, chẳng nên lìa pháp tánh của Độc-giác hướng, Độc-giác quả mà cầu. Vì sao? Vì hoặc pháp tánh của Độc-giác, hoặc pháp tánh của Độc-giác hướng, Độc-giác quả; hoặc lìa pháp tánh của Độc-giác, hoặc lìa pháp tánh của Độc-giác hướng, Độc-giác quả; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả thứ ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi là vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng phải pháp tánh của Độc-giác, chẳng phải pháp tánh của Độc-giác hướng, Độc-giác quả; chẳng phải lìa pháp tánh của Độc-giác, chẳng phải lìa pháp tánh của Độc-giác hướng, Độc-giác quả. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng phải pháp tánh của Độc-giác, chẳng phải pháp tánh của Độc-giác hướng, Độc-giác quả; chẳng phải lìa pháp tánh của Độc-giác, chẳng phải lìa pháp tánh của Độc-giác hướng, Độc-giác quả. Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng nên cầu nơi pháp tánh của Độc-giác, chẳng nên cầu nơi pháp tánh của Độc-giác hướng, Độc-giác quả; chẳng nên lìa pháp tánh của Độc-giác mà cầu, chẳng nên lìa pháp tánh của Độc-giác hướng, Độc-giác quả mà cầu.

Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng nên cầu nơi pháp tánh của đại Bồ-tát, chẳng nên cầu nơi pháp tánh của Tam-miệu-tam Phật-đà; chẳng nên lìa pháp tánh của đại Bồ-tát mà cầu, chẳng nên lìa pháp tánh của Tam-miệu-tam Phật-đà mà cầu. Vì sao? Vì hoặc pháp tánh của đại Bồ-tát, hoặc pháp tánh của Tam-miệu-tam Phật-đà; hoặc lìa pháp tánh của đại Bồ-tát, hoặc lìa pháp tánh của Tam-miệu-tam Phật-đà; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả thứ ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi là vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng phải pháp tánh của đại Bồ-tát, chẳng phải pháp tánh của Tam-miệu-tam Phật-đà; chẳng phải lìa pháp tánh của đại Bồ-tát, chẳng phải lìa pháp tánh của Tam-miệu-tam Phật-đà. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng phải pháp tánh của đại Bồ-tát, chẳng phải pháp tánh của Tam-miệu-tam Phật-đà; chẳng phải lìa pháp tánh của đại Bồ-tát, chẳng phải lìa pháp tánh của Tam-miệu-tam Phật-đà. Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng nên cầu nơi pháp tánh của đại Bồ-tát, chẳng nên cầu nơi pháp tánh của Tam-miệu-tam Phật-đà; chẳng nên lìa pháp tánh của đại Bồ-tát mà cầu, chẳng nên lìa pháp tánh của Tam-miệu-tam Phật-đà mà cầu.

Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng nên cầu nơi pháp tánh của pháp đại Bồ-tát, chẳng nên cầu nơi pháp tánh của quả vị giác ngộ cao tột; chẳng nên lìa pháp tánh của pháp đại Bồ-tát mà cầu, chẳng nên lìa pháp tánh của quả vị giác ngộ cao tột mà cầu. Vì sao? Vì hoặc pháp tánh của pháp đại Bồ-tát, hoặc pháp tánh của quả vị giác ngộ cao tột; hoặc lìa pháp tánh của pháp đại Bồ-tát, hoặc lìa pháp tánh của quả vị giác ngộ cao tột; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả thứ ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi là vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng phải pháp tánh của pháp đại Bồ-tát, chẳng phải pháp tánh của quả vị giác ngộ cao tột; chẳng phải lìa pháp tánh của pháp đại Bồ-tát, chẳng phải lìa pháp tánh của quả vị giác ngộ cao tột. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng phải pháp tánh của pháp đại Bồ-tát, chẳng phải pháp tánh của quả vị giác ngộ cao tột; chẳng phải lìa pháp tánh của pháp đại Bồ-tát, chẳng phải lìa pháp tánh của quả vị giác ngộ cao tột. Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng nên cầu nơi pháp tánh của pháp đại Bồ-tát, chẳng nên cầu nơi pháp tánh của quả vị giác ngộ cao tột; chẳng nên lìa pháp tánh của pháp đại Bồ-tát mà cầu, chẳng nên lìa pháp tánh của quả vị giác ngộ cao tột mà cầu.

Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng nên cầu nơi pháp tánh của Thanh-văn thừa, chẳng nên cầu nơi pháp tánh của Độc-giác thừa, Vô-thượng thừa; chẳng nên lìa pháp tánh của Thanh-văn thừa mà cầu, chẳng nên lìa pháp tánh của Độc-giác thừa, Vô-thượng thừa mà cầu. Vì sao? Vì hoặc pháp tánh của Thanh-văn thừa, hoặc pháp tánh của Độc-giác thừa, Vô-thượng thừa; hoặc lìa pháp tánh của Thanh-văn thừa, hoặc lìa pháp tánh của Độc-giác thừa, Vô-thượng thừa; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả thứ ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi là vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng phải pháp tánh của Thanh-văn thừa, chẳng phải pháp tánh của Độc-giác thừa, Vô-thượng thừa; chẳng phải lìa pháp tánh của Thanh-văn thừa, chẳng phải lìa pháp tánh của Độc-giác thừa, Vô-thượng thừa. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng phải pháp tánh của Thanh-văn thừa, chẳng phải pháp tánh của Độc-giác thừa, Vô-thượng thừa; chẳng phải lìa pháp tánh của Thanh-văn thừa, chẳng phải lìa pháp tánh của Độc-giác thừa, Vô-thượng thừa. Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng nên cầu nơi pháp tánh của Thanh-văn thừa, chẳng nên cầu nơi pháp tánh của Độc-giác thừa, Vô-thượng thừa; chẳng nên lìa pháp tánh của Thanh-văn thừa mà cầu, chẳng nên lìa pháp tánh của Độc-giác thừa, Vô-thượng thừa mà cầu.

Tập 02
Quyển 98
Phẩm Thán Chúng Công Đức 1

 

Khi ấy, trời Đế Thích bạch với Thiện Hiện: Bạch Đại đức! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành là Ba-la-mật-đa lớn, là Ba-la-mật-đa vô lượng, là Ba-la-mật-đa vô biên. Các bậc Dự-lưu học pháp này thì đắc quả Dự-lưu; các bậc Nhất-lai học pháp này thì đắc quả Nhất-lai; các bậc Bất-hoàn học pháp này thì đắc quả Bất-hoàn; các bậc A-la-hán học pháp này thì đắc quả A-la-hán; các bậc Độc-giác học pháp này thì đắc quả vị Độc-giác; các đại Bồ-tát học pháp này thì có khả năng thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Thiện Hiện bảo: Đúng vậy! Đúng vậy! Như ông đã nói! Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành là Ba-la-mật-đa lớn, là Ba-la-mật-đa vô lượng, là Ba-la-mật-đa vô biên. Kiều Thi Ca! Hoặc quá khứ, hoặc hiện tại, hoặc vị lai, các bậc Dự-lưu học pháp này thì đắc quả Dự-lưu; các bậc Nhất-lai học pháp này thì đắc quả Nhất-lai; các bậc Bất-hoàn học pháp này thì đắc quả Bất-hoàn; các bậc A-la-hán học pháp này thì đắc quả A-la-hán; các bậc Độc-giác học pháp này thì đắc quả vị Độc-giác; các đại Bồ-tát học pháp này thì có khả năng thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột

Kiều Thi Ca! Vì sắc là lớn nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng lớn; vì thọ, tưởng, hành, thức là lớn nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng lớn. Vì sao? Vì sắc uẩn v.v... khoảng trước, giữa, sau đều chẳng thể nắm bắt được nên nói là lớn. Vì chúng lớn, nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng nói là lớn.

Kiều Thi Ca! Vì nhãn xứ là lớn nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng lớn; vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là lớn nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng lớn. Vì sao? Vì nhãn xứ v.v... khoảng trước, giữa, sau đều chẳng thể nắm bắt được nên nói là lớn. Vì chúng lớn, nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng nói là lớn.

Kiều Thi Ca! Vì sắc xứ là lớn nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng lớn; vì thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là lớn nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng lớn. Vì sao? Vì sắc xứ v.v... khoảng trước, giữa, sau đều chẳng thể nắm bắt được nên nói là lớn. Vì chúng lớn, nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng nói là lớn.

Kiều Thi Ca! Vì nhãn giới là lớn nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng lớn; vì sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là lớn nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng lớn. Vì sao? Vì nhãn giới v.v... khoảng trước, giữa, sau đều chẳng thể nắm bắt được nên nói là lớn. Vì chúng lớn, nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng nói là lớn.

Kiều Thi Ca! Vì nhĩ giới là lớn nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng lớn; vì thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là lớn nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng lớn. Vì sao? Vì nhĩ giới v.v... khoảng trước, giữa, sau đều chẳng thể nắm bắt được nên nói là lớn. Vì chúng lớn, nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng nói là lớn.

Kiều Thi Ca! Vì tỷ giới là lớn nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng lớn; vì hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là lớn nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng lớn. Vì sao? Vì tỷ giới v.v... khoảng trước, giữa, sau đều chẳng thể nắm bắt được nên nói là lớn. Vì chúng lớn, nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng nói là lớn.

Kiều Thi Ca! Vì thiệt giới là lớn nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng lớn; vì vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là lớn nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng lớn. Vì sao? Vì thiệt giới v.v... khoảng trước, giữa, sau đều chẳng thể nắm bắt được nên nói là lớn. Vì chúng lớn, nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng nói là lớn.

Kiều Thi Ca! Vì thân giới là lớn nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng lớn; vì xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là lớn nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng lớn. Vì sao? Vì thân giới v.v... khoảng trước, giữa, sau đều chẳng thể nắm bắt được nên nói là lớn. Vì chúng lớn, nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng nói là lớn.

Kiều Thi Ca! Vì ý giới là lớn nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng lớn; vì pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là lớn nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng lớn. Vì sao? Vì ý giới v.v... khoảng trước, giữa, sau đều chẳng thể nắm bắt được nên nói là lớn. Vì chúng lớn, nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng nói là lớn.

Kiều Thi Ca! Vì địa giới là lớn nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng lớn; vì thủy, hỏa, phong, không, thức giới là lớn nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng lớn. Vì sao? Vì địa giới v.v... khoảng trước, giữa, sau đều chẳng thể nắm bắt được nên nói là lớn. Vì chúng lớn, nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng nói là lớn.

Kiều Thi Ca! Vì Thánh đế khổ là lớn nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng lớn; vì thánh đế tập, diệt, đạo là lớn nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng lớn. Vì sao? Vì Thánh đế khổ v.v... khoảng trước, giữa, sau đều chẳng thể nắm bắt được nên nói là lớn. Vì chúng lớn, nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng nói là lớn.

Kiều Thi Ca! Vì vô minh là lớn nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng lớn; vì hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não là lớn nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng lớn. Vì sao? Vì vô minh v.v... khoảng trước, giữa, sau đều chẳng thể nắm bắt được nên nói là lớn. Vì chúng lớn, nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng nói là lớn.

Kiều Thi Ca! Vì cái không nội là lớn nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng lớn; vì cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bản tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh là lớn nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng lớn. Vì sao? Vì cái không nội v.v... khoảng trước, giữa, sau đều chẳng thể nắm bắt được nên nói là lớn. Vì chúng lớn, nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng nói là lớn.

Kiều Thi Ca! Vì chơn như là lớn nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng lớn; vì pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì là lớn nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng lớn. Vì sao? Vì chơn như v.v... khoảng trước, giữa, sau đều chẳng thể nắm bắt được nên nói là lớn. Vì chúng lớn, nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng nói là lớn.

Kiều Thi Ca! Vì bố thí Ba-la-mật-đa là lớn nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng lớn; vì tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa là lớn nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng lớn. Vì sao? Vì bố thí Ba-la-mật-đa v.v... khoảng trước, giữa, sau đều chẳng thể nắm bắt được nên nói là lớn. Vì chúng lớn, nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng nói là lớn. 

Kiều Thi Ca! Vì bốn tịnh lự là lớn nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng lớn; vì bốn vô lượng, bốn định vô sắc là lớn nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng lớn. Vì sao? Vì bốn tịnh lự v.v... khoảng trước, giữa, sau đều chẳng thể nắm bắt được nên nói là lớn. Vì chúng lớn, nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng nói là lớn.

Kiều Thi Ca! Vì tám giải thoát là lớn nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng lớn; vì tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ là lớn nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng lớn. Vì sao? Vì tám giải thoát v.v... khoảng trước, giữa, sau đều chẳng thể nắm bắt được nên nói là lớn. Vì chúng lớn, nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng nói là lớn.

Kiều Thi Ca! Vì bốn niệm trụ là lớn nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng lớn; vì bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo là lớn nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng lớn. Vì sao? Vì bốn niệm trụ v.v... khoảng trước, giữa, sau đều chẳng thể nắm bắt được nên nói là lớn. Vì chúng lớn, nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng nói là lớn.

Kiều Thi Ca! Vì pháp môn giải thoát không là lớn nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng lớn; vì pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện là lớn nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng lớn. Vì sao? Vì pháp môn giải thoát không v.v... khoảng trước, giữa, sau đều chẳng thể nắm bắt được nên nói là lớn. Vì chúng lớn, nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng nói là lớn.

Kiều Thi Ca! Vì năm loại mắt là lớn nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng lớn; vì sáu phép thần thông là lớn nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng lớn. Vì sao? Vì năm loại mắt v.v... khoảng trước, giữa, sau đều chẳng thể nắm bắt được nên nói là lớn. Vì chúng lớn, nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng nói là lớn.

Kiều Thi Ca! Vì mười lực của Phật là lớn nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng lớn; vì bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng là lớn nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng lớn. Vì sao? Vì mười lực của Phật v.v... khoảng trước, giữa, sau đều chẳng thể nắm bắt được nên nói là lớn. Vì chúng lớn, nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng nói là lớn.

Kiều Thi Ca! Vì pháp không quên mất là lớn nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng lớn; vì tánh luôn luôn xả là lớn nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng lớn. Vì sao? Vì pháp không quên mất v.v... khoảng trước, giữa, sau đều chẳng thể nắm bắt được nên nói là lớn. Vì chúng lớn, nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng nói là lớn.

Kiều Thi Ca! Vì trí nhất thiết là lớn nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng lớn; vì trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là lớn nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng lớn. Vì sao? Vì trí nhất thiết v.v... khoảng trước, giữa, sau đều chẳng thể nắm bắt được nên nói là lớn. Vì chúng lớn, nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng nói là lớn.

Kiều Thi Ca! Vì tất cả pháp môn Đà-la-ni là lớn nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng lớn; vì tất cả pháp môn Tam-ma-địa là lớn nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng lớn. Vì sao? Vì tất cả pháp môn Đà-la-ni v.v... khoảng trước, giữa, sau đều chẳng thể nắm bắt được nên nói là lớn. Vì chúng lớn, nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng nói là lớn.

Kiều Thi Ca! Vì Dự-lưu là lớn nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng lớn; vì Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán là lớn nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng lớn. Vì sao? Vì Dự-lưu v.v... khoảng trước, giữa, sau đều chẳng thể nắm bắt được nên nói là lớn. Vì chúng lớn, nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng nói là lớn.

Kiều Thi Ca! Vì Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả là lớn nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng lớn; vì Nhất-lai hướng, Nhất-lai quả, Bất-hoàn hướng, Bất-hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả là lớn nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng lớn. Vì sao? Vì Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả v.v... khoảng trước, giữa, sau đều chẳng thể nắm bắt được nên nói là lớn. Vì chúng lớn, nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng nói là lớn.

Kiều Thi Ca! Vì Độc-giác là lớn nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng lớn; vì Độc-giác hướng, Độc-giác quả là lớn nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng lớn. Vì sao? Vì Độc-giác v.v... khoảng trước, giữa, sau đều chẳng thể nắm bắt được nên nói là lớn. Vì chúng lớn, nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng nói là lớn.

Kiều Thi Ca! Vì đại Bồ-tát là lớn nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng lớn; vì Tam-miệu-tam Phật-đà là lớn nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng lớn. Vì sao? Vì đại Bồ-tát v.v... khoảng trước, giữa, sau đều chẳng thể nắm bắt được nên nói là lớn. Vì chúng lớn, nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng nói là lớn.

Kiều Thi Ca! Vì pháp của đại Bồ-tát là lớn nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng lớn; vì quả vị giác ngộ cao tột là lớn nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng lớn. Vì sao? Vì pháp của đại Bồ-tát v.v... khoảng trước, giữa, sau đều chẳng thể nắm bắt được nên nói là lớn. Vì chúng lớn, nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng nói là lớn.

Kiều Thi Ca! Vì Thanh-văn thừa là lớn nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng lớn; vì Độc-giác thừa, Vô-thượng thừa là lớn nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng lớn. Vì sao? Vì Thanh-văn thừa v.v... khoảng trước, giữa, sau đều chẳng thể nắm bắt được nên nói là lớn. Vì chúng lớn, nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng nói là lớn.

Kiều Thi Ca! Do duyên cớ này nên tôi nói: Vì sắc v.v... là lớn nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng lớn.

Kiều Thi Ca! Vì sắc vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng vô lượng; vì thọ, tưởng, hành, thức vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng vô lượng. Vì sao? Vì lượng của sắc uẩn v.v... chẳng thể nắm bắt được nên nói là vô lượng. Kiều Thi Ca! Thí như lượng của hư không chẳng thể nắm bắt được, lượng của sắc uẩn v.v... cũng như vậy, chẳng thể nắm bắt được. Kiều Thi Ca! Vì hư không vô lượng nên sắc uẩn v.v... cũng vô lượng. Vì sắc uẩn v.v... vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng vô lượng.

Kiều Thi Ca! Vì nhãn xứ vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng vô lượng; vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng vô lượng. Vì sao? Vì lượng của nhãn xứ v.v... chẳng thể nắm bắt được nên nói là vô lượng. Kiều Thi Ca! Thí như lượng của hư không chẳng thể nắm bắt được, lượng của nhãn xứ v.v... cũng như vậy, chẳng thể nắm bắt được. Kiều Thi Ca! Vì hư không vô lượng nên nhãn xứ v.v... cũng vô lượng. Vì nhãn xứ v.v... vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng vô lượng.

Kiều Thi Ca! Vì sắc xứ vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng vô lượng; vì thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng vô lượng. Vì sao? Vì lượng của sắc xứ v.v... chẳng thể nắm bắt được nên nói là vô lượng. Kiều Thi Ca! Thí như lượng của hư không chẳng thể nắm bắt được, lượng của sắc xứ v.v... cũng như vậy, chẳng thể nắm bắt được. Kiều Thi Ca! Vì hư không vô lượng nên sắc xứ v.v... cũng vô lượng. Vì sắc xứ v.v... vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng vô lượng.

Kiều Thi Ca! Vì nhãn giới vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng vô lượng; vì sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng vô lượng. Vì sao? Vì lượng của nhãn giới v.v... chẳng thể nắm bắt được nên nói là vô lượng. Kiều Thi Ca! Thí như lượng của hư không chẳng thể nắm bắt được, lượng của nhãn giới v.v... cũng như vậy, chẳng thể nắm bắt được. Kiều Thi Ca! Vì hư không vô lượng nên nhãn giới v.v... cũng vô lượng. Vì nhãn giới v.v... vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng vô lượng.

Kiều Thi Ca! Vì nhĩ giới vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng vô lượng; vì thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng vô lượng. Vì sao? Vì lượng của nhĩ giới v.v... chẳng thể nắm bắt được nên nói là vô lượng. Kiều Thi Ca! Thí như lượng của hư không chẳng thể nắm bắt được, lượng của nhĩ giới v.v... cũng như vậy, chẳng thể nắm bắt được. Kiều Thi Ca! Vì hư không vô lượng nên nhĩ giới v.v... cũng vô lượng. Vì nhĩ giới v.v... vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng vô lượng.

Kiều Thi Ca! Vì tỷ giới vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng vô lượng; vì hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng vô lượng. Vì sao? Vì lượng của tỷ giới v.v... chẳng thể nắm bắt được nên nói là vô lượng. Kiều Thi Ca! Thí như lượng của hư không chẳng thể nắm bắt được, lượng của tỷ giới v.v... cũng như vậy, chẳng thể nắm bắt được. Kiều Thi Ca! Vì hư không vô lượng nên tỷ giới v.v... cũng vô lượng. Vì tỷ giới v.v... vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng vô lượng.

Kiều Thi Ca! Vì thiệt giới vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng vô lượng; vì vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng vô lượng. Vì sao? Vì lượng của thiệt giới v.v... chẳng thể nắm bắt được nên nói là vô lượng. Kiều Thi Ca! Thí như lượng của hư không chẳng thể nắm bắt được, lượng của thiệt giới v.v... cũng như vậy, chẳng thể nắm bắt được. Kiều Thi Ca! Vì hư không vô lượng nên thiệt giới v.v... cũng vô lượng. Vì thiệt giới v.v... vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng vô lượng.

Kiều Thi Ca! Vì thân giới vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng vô lượng; vì xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng vô lượng. Vì sao? Vì lượng của thân giới v.v... chẳng thể nắm bắt được nên nói là vô lượng. Kiều Thi Ca! Thí như lượng của hư không chẳng thể nắm bắt được, lượng của thân giới v.v... cũng như vậy, chẳng thể nắm bắt được. Kiều Thi Ca! Vì hư không vô lượng nên thân giới v.v... cũng vô lượng. Vì thân giới v.v... vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng vô lượng.

Kiều Thi Ca! Vì ý giới vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng vô lượng; vì pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng vô lượng. Vì sao? Vì lượng của ý giới v.v... chẳng thể nắm bắt được nên nói là vô lượng. Kiều Thi Ca! Thí như lượng của hư không chẳng thể nắm bắt được, lượng của ý giới v.v... cũng như vậy, chẳng thể nắm bắt được. Kiều Thi Ca! Vì hư không vô lượng nên ý giới v.v... cũng vô lượng. Vì ý giới v.v... vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng vô lượng.

Kiều Thi Ca! Vì địa giới vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng vô lượng; vì thủy, hỏa, phong, không, thức giới vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng vô lượng. Vì sao? Vì lượng của địa giới v.v... chẳng thể nắm bắt được nên nói là vô lượng. Kiều Thi Ca! Thí như lượng của hư không chẳng thể nắm bắt được, lượng của địa giới v.v... cũng như vậy, chẳng thể nắm bắt được. Kiều Thi Ca! Vì hư không vô lượng nên địa giới v.v... cũng vô lượng. Vì địa giới v.v... vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng vô lượng.

Kiều Thi Ca! Vì Thánh đế khổ vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng vô lượng; vì Thánh đế tập, diệt, đạo vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng vô lượng. Vì sao? Vì lượng của Thánh đế khổ v.v... chẳng thể nắm bắt được nên nói là vô lượng. Kiều Thi Ca! Thí như lượng của hư không chẳng thể nắm bắt được, lượng của Thánh đế khổ v.v... cũng như vậy, chẳng thể nắm bắt được. Kiều Thi Ca! Vì hư không vô lượng nên Thánh đế khổ v.v... cũng vô lượng. Vì Thánh đế khổ v.v... vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng vô lượng.

Kiều Thi Ca! Vì vô minh vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng vô lượng; vì hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng vô lượng. Vì sao? Vì lượng của vô minh v.v... chẳng thể nắm bắt được nên nói là vô lượng. Kiều Thi Ca! Thí như lượng của hư không chẳng thể nắm bắt được, lượng của vô minh v.v... cũng như vậy, chẳng thể nắm bắt được. Kiều Thi Ca! Vì hư không vô lượng nên vô minh v.v... cũng vô lượng. Vì vô minh v.v... vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng vô lượng.

Kiều Thi Ca! Vì cái không nội vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng vô lượng; vì cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bản tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng vô lượng. Vì sao? Vì lượng của cái không nội v.v... chẳng thể nắm bắt được nên nói là vô lượng. Kiều Thi Ca! Thí như lượng của hư không chẳng thể nắm bắt được, lượng của cái không nội v.v... cũng như vậy, chẳng thể nắm bắt được. Kiều Thi Ca! Vì hư không vô lượng nên cái không nội v.v... cũng vô lượng. Vì cái không nội v.v... vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng vô lượng.

Kiều Thi Ca! Vì chơn như vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng vô lượng; vì pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng vô lượng. Vì sao? Vì lượng của chơn như v.v... chẳng thể nắm bắt được nên nói là vô lượng. Kiều Thi Ca! Thí như lượng của hư không chẳng thể nắm bắt được, lượng của chơn như v.v... cũng như vậy, chẳng thể nắm bắt được. Kiều Thi Ca! Vì hư không vô lượng nên chơn như v.v... cũng vô lượng. Vì chơn như v.v... vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng vô lượng.

Kiều Thi Ca! Vì bố thí Ba-la-mật-đa vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng vô lượng; vì tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng vô lượng. Vì sao? Vì lượng của bố thí Ba-la-mật-đa v.v... chẳng thể nắm bắt được nên nói là vô lượng. Kiều Thi Ca! Thí như lượng của hư không chẳng thể nắm bắt được, lượng của bố thí Ba-la-mật-đa v.v... cũng như vậy, chẳng thể nắm bắt được. Kiều Thi Ca! Vì hư không vô lượng nên bố thí Ba-la-mật-đa v.v... cũng vô lượng. Vì bố thí Ba-la-mật-đa v.v... vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng vô lượng. 

Kiều Thi Ca! Vì bốn tịnh lự vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng vô lượng; vì bốn vô lượng, bốn định vô sắc vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng vô lượng. Vì sao? Vì lượng của bốn tịnh lự v.v... chẳng thể nắm bắt được nên nói là vô lượng. Kiều Thi Ca! Thí như lượng của hư không chẳng thể nắm bắt được, lượng của bốn tịnh lự v.v... cũng như vậy, chẳng thể nắm bắt được. Kiều Thi Ca! Vì hư không vô lượng nên bốn tịnh lự v.v... cũng vô lượng. Vì bốn tịnh lự v.v... vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng vô lượng.

Kiều Thi Ca! Vì tám giải thoát vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng vô lượng; vì tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng vô lượng. Vì sao? Vì lượng của tám giải thoát v.v... chẳng thể nắm bắt được nên nói là vô lượng. Kiều Thi Ca! Thí như lượng của hư không chẳng thể nắm bắt được, lượng của tám giải thoát v.v... cũng như vậy, chẳng thể nắm bắt được. Kiều Thi Ca! Vì hư không vô lượng nên tám giải thoát v.v... cũng vô lượng. Vì tám giải thoát v.v... vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng vô lượng.

Kiều Thi Ca! Vì bốn niệm trụ vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng vô lượng; vì bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng vô lượng. Vì sao? Vì lượng của bốn niệm trụ v.v... chẳng thể nắm bắt được nên nói là vô lượng. Kiều Thi Ca! Thí như lượng của hư không chẳng thể nắm bắt được, lượng của bốn niệm trụ v.v... cũng như vậy, chẳng thể nắm bắt được. Kiều Thi Ca! Vì hư không vô lượng nên bốn niệm trụ v.v... cũng vô lượng. Vì bốn niệm trụ v.v... vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng vô lượng.

Kiều Thi Ca! Vì pháp môn giải thoát không vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng vô lượng; vì pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng vô lượng. Vì sao? Vì lượng của pháp môn giải thoát không v.v... chẳng thể nắm bắt được nên nói là vô lượng. Kiều Thi Ca! Thí như lượng của hư không chẳng thể nắm bắt được, lượng của pháp môn giải thoát không v.v... cũng như vậy, chẳng thể nắm bắt được. Kiều Thi Ca! Vì hư không vô lượng nên pháp môn giải thoát không v.v... cũng vô lượng. Vì pháp môn giải thoát không v.v... vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng vô lượng.

Kiều Thi Ca! Vì năm loại mắt vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng vô lượng; vì sáu phép thần thông vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng vô lượng. Vì sao? Vì lượng của năm loại mắt v.v... chẳng thể nắm bắt được nên nói là vô lượng. Kiều Thi Ca! Thí như lượng của hư không chẳng thể nắm bắt được, lượng của năm loại mắt v.v... cũng như vậy, chẳng thể nắm bắt được. Kiều Thi Ca! Vì hư không vô lượng nên năm loại mắt v.v... cũng vô lượng. Vì năm loại mắt v.v... vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng vô lượng.

Kiều Thi Ca! Vì mười lực của Phật vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng vô lượng; vì bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng vô lượng. Vì sao? Vì lượng của mười lực Phật v.v... chẳng thể nắm bắt được nên nói là vô lượng. Kiều Thi Ca! Thí như lượng của hư không chẳng thể nắm bắt được, lượng của mười lực Phật v.v... cũng như vậy, chẳng thể nắm bắt được. Kiều Thi Ca! Vì hư không vô lượng nên mười lực của Phật v.v... cũng vô lượng. Vì mười lực của Phật v.v... vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng vô lượng.

Kiều Thi Ca! Vì pháp không quên mất vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng vô lượng; vì tánh luôn luôn xả vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng vô lượng. Vì sao? Vì lượng của pháp không quên mất v.v... chẳng thể nắm bắt được nên nói là vô lượng. Kiều Thi Ca! Thí như lượng của hư không chẳng thể nắm bắt được, lượng của pháp không quên mất v.v... cũng như vậy, chẳng thể nắm bắt được. Kiều Thi Ca! Vì hư không vô lượng nên pháp không quên mất v.v... cũng vô lượng. Vì pháp không quên mất v.v... vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng vô lượng.

Kiều Thi Ca! Vì trí nhất thiết vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng vô lượng; vì trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng vô lượng. Vì sao? Vì lượng của trí nhất thiết v.v... chẳng thể nắm bắt được nên nói là vô lượng. Kiều Thi Ca! Thí như lượng của hư không chẳng thể nắm bắt được, lượng của trí nhất thiết v.v... cũng như vậy, chẳng thể nắm bắt được. Kiều Thi Ca! Vì hư không vô lượng nên trí nhất thiết v.v... cũng vô lượng. Vì trí nhất thiết v.v... vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng vô lượng.

Kiều Thi Ca! Vì tất cả pháp môn Đà-la-ni vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng vô lượng; vì tất cả pháp môn Tam-ma-địa vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng vô lượng. Vì sao? Vì lượng của tất cả pháp môn Đà-la-ni v.v... chẳng thể nắm bắt được nên nói là vô lượng. Kiều Thi Ca! Thí như lượng của hư không chẳng thể nắm bắt được, lượng của tất cả pháp môn Đà-la-ni v.v... cũng như vậy, chẳng thể nắm bắt được. Kiều Thi Ca! Vì hư không vô lượng nên tất cả pháp môn Đà-la-ni v.v... cũng vô lượng. Vì tất cả pháp môn Đà-la-ni v.v... vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành cũng vô lượng.

 

Quyển thứ 98

Hết

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/02/2013(Xem: 10374)
Từ những con người bình thường, không được sinh ra ở cung vàng điện ngọc, nhưng rồi trở thành những vị vua anh minh tài kiêm văn võ, tư tưởng và nhân cách cao siêu, mãi còn đọng lại với thời gian. Dù sống ở hoàng cung nhưng tâm lúc nào cũng vượt thoát, làm bậc đế vương nhưng hạnh vẫn là một sơn Tăng, ưa vui với gió nội mây ngàn, thở nhịp cùng đất trời nhân gian cây cỏ. Để rồi trở thành những người con Phật vĩ đại, trí tuệ và công hạnh thắm đượm cả không gian, thức tỉnh chúng ta trên bến bờ sinh tử của mê ngộ, đậm nét trong lòng người đến tận hôm nay. Bồ Tát Lương Võ Đế ( 463-549 ) của Trung Hoa và Trần Thái Tông ( 1218-1277) của Việt Nam, dù ở hai phương trời xa cách, sinh ra ở hai thời điểm khác nhau, nhưng cùng chung một tấm lòng, mang an lạc thịnh vượng đến cho nhân dân, và một hạnh nguyện chuyển hoá cứu độ quần sanh.
07/02/2013(Xem: 18807)
Nửa thế kỷ Tôn Sư vắng bóng, Ánh Đạo Vàng tỏa rộng muôn phương Hôm nay tổ chức huy hoàn Hằng năm kỷ niệm, đàn tràng tôn nghiêm. Môn đồ Tứ chúng ngưỡng chiêm,
06/02/2013(Xem: 7746)
Hòa thượng Bích Liên, thế danh là Nguyễn Trọng Khải, hiệu Mai Đình (Thận Thần Thị), sinh ngày 16 tháng 3 năm Bính Tý (1876), tại làng Háo Đức, phủ An Nhơn, nay là ấp Háo Đức, xã Nhơn An, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Ngài sinh trưởng trong một gia đình nho học, được theo nghiệp bút nghiên từ nhỏ. Cha là Tú Tài Nguyễn Tự, mẹ là bà Lâm Thị Hòa Nghị . Năm 20 tuổi, Ngài lập gia đình với cô Lê Thị Hồng Kiều, người làng An Hòa, (nay thuộc xã Nhơn Khánh cùng huyện). Năm 31 tuổi, Ngài lều chõng vào trường thi Hương Bình Định và đỗ Tú Tài. Ba năm sau, Ngài lại đỗ Tú Tài lần nữa. Từ đó, biết mình long đong trên bước đường khoa bảng, Ngài giã từ lều chõng, ở nhà mở trường dạy học, mượn trăng thanh gió mát di dưỡng tính tình, lấy chén rượu câu thơ vui cùng tuế nguyệt.
03/02/2013(Xem: 6563)
Tuệ Sỹ là ai mà thơ hào sảng, hùng tâm tráng khí như thế ? Tuệ Sỹ quê Quảng Bình, sinh năm 1943, nhỏ hơn Phạm Công Thiện 2 tuổi, cũng là một bậc thiên tài xuất chúng, làu thông kinh điển Nguyên thủy, Đại thừa và nhiều thứ tiếng Anh, Pháp, Đức, Hán, Phạn, Pali. Khi mới vừa 26 tuổi đã viết Triết học về Tánh Không làm chấn động giới văn nghệ sĩ, học giả, thiện tri thức Việt Nam thời bấy giờ.
20/01/2013(Xem: 6036)
Phạm Công Thiện(1/6/1941 - 8/3/2011), là một nhà văn, triết gia, học giả, thi sĩ và cư sĩ Phật Giáo người Việt Nam với pháp danh Thích Nguyên Tánh. Tuy nhận mình là nhà thơ và phủ nhận nghề triết gia, ông vẫn được coi là một triết gia thần đồng, một hiện tượng dị thường của Sài Gòn thập niên 60 và của Việt Nam với những tư tưởng ít người hiểu và được bộc phát từ hồi còn rất trẻ. Dưới đây là bài viết của Tâm Nhiên nhân sắp đến ngày giỗ của ông.
12/01/2013(Xem: 6597)
Đã có rất nhiều sách vở, bài viết hoặc với tính chất nghiên cứu, hoặc là các bài giảng phổ cập bàn về tông Thiên Thai và kinh Pháp Hoa. Bài viết này nói đến vai trò, vị trí của Đại sư Trí Khải và tông Thiên Thai trong lịch sử Phật giáo, cũng như trong nền văn hóa tư tưởng của toàn thể nhân loại. Đại sư Trí Khải sinh năm 538, vào thời đại mà sau này các sử gia gọi là Nam Bắc triều (220-589). Sông Dương Tử được lấy làm gianh giới phân chia giữa hai miền Nam và Bắc. Trong thiền sử, ta thường nghe nói đến câu Nam Năng (Huệ Năng)-Bắc Tú (Thần Tú), để phân biệt hai dòng thiền: Đại sư Thần Tú xiển dương Thiền tiệm ngộ ngay tại Trường An; Đại sư Huệ Năng phát triển Thiền đốn ngộ tại vùng Quảng Đông và lân cận. Bấy giờ Trung Hoa bị chia thành nhiều nước nhỏ, nước này xâm lăng và thôn tính nước kia, gây nên nhiều cuộc chiến tương tàn, dân chúng sống trong cảnh lầm than đau khổ.
07/01/2013(Xem: 7195)
Phần lớn độc giả biết nhiều đến các tiểu luận và các tập thơ phản chiến, nhưng ít người biết đến những bài thơ Thiền của Nhất Hạnh. Tôi xin trích một bài được nhà xuất bản Unicorn Press xuất bản trong tâp thơ Zen Poems của Nhất Hạnh vào năm 1976 (bản dịch Anh Ngữ) của Võ Đình. Bài này được in vào tuyển tập thơ nhạc họa vào mùa Phật Đản 1964
10/12/2012(Xem: 7004)
Cả cuộc đời 86 tuổi của Ngài Đội trời đạp đất, đã tròn chưa bản nguyện Kiếp tu hành 81 năm của Ngài Gánh vác hy sinh...
09/10/2012(Xem: 11322)
Thiền sư Lê Mạnh Thátcho rằng Vua Trần Nhân Tông là một nhân vật tiêu biểu trong lịch sử Việt Nam nhất là vì tư tưởng hòa giải dân tộc của ông vẫn còn tính thời sự. Trả lời câu hỏi của BBC vì sao tư tưởng của Trần Nhân Tông (trị vì từ năm 1278-1293) và là Phật Hoàng, sáng lập ra phái thiền phái Trúc Lâm vẫn còn có tính thời sự đối với Việt Nam và cả quan hệ Mỹ - Việt cũng như Việt - Trung, Tiến sỹ Lê Mạnh Thát nói:
01/10/2012(Xem: 6352)
Kính bạch Giác Linh Đức Thầy, Dẫu biết rằng: “Cuộc đời là ảo mộng, vạn vật vốn vô thường, chuyển di không ngừng nghỉ, biến diệt lẽ tự nhiên, tử sanh không tránh khỏi.” Nhưng ân đức cao dày, tình thương nồng thắm, Đức Thầy đã ban cho hàng đệ tử chúng con, chẳng những được kết thành giới thân huệ mạng, mà còn mang lại cho cuộc đời giải thoát của chúng con vô vàn hạnh phúc… Ân đức ấy, mãi mãi khắc sâu vào cuộc đời tu học của chúng con vô cùng vững chắc, dù cho thời gian, sự vô thường có thay đổi...
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]