Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Quyển 62: Phẩm Vô Sở Đắc 2

07/07/201511:44(Xem: 14439)
Quyển 62: Phẩm Vô Sở Đắc 2

Tập 02
Quyển 62
Phẩm Vô Sở Đắc 2
Bản dịch của HT Thích Trí Nghiêm
Diễn đọc: Cư Sĩ Chánh Trí



Xá Lợi Tử! Vì nhĩ giới không sở hữu, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được; vì thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra không sở hữu, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được. Vì nhĩ giới là không, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được; vì thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là không, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được. Vì nhĩ giới là viễn ly, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được; vì thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là viễn ly, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được. Vì nhĩ giới không tự tánh, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được; vì thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra không tự tánh, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Xá Lợi Tử! Vì trong cái không sở hữu, không, viễn ly, không tự tánh của nhĩ giới, thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra, đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, đều chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Chẳng phải cái không sở hữu của nhĩ giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra có sự sai khác; chẳng phải cái không của nhĩ giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra có sự sai khác; chẳng phải cái viễn ly của nhĩ giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra có sự sai khác; chẳng phải cái không tự tánh của nhĩ giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra có sự sai khác. Chẳng phải đại Bồ-tát đời trước, có sự sai khác; chẳng phải đại Bồ-tát đời sau, có sự sai khác; chẳng phải đại Bồ-tát đời giữa, có sự sai khác.

Xá Lợi Tử! Hoặc cái không sở hữu của nhĩ giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra, hoặc cái không của nhĩ giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra, hoặc cái viễn ly của nhĩ giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra, hoặc cái không tự tánh của nhĩ giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra, hoặc đại Bồ-tát đời trước, hoặc đại Bồ-tát đời sau, hoặc đại Bồ-tát đời giữa, tất cả pháp như vậy, đều không hai, không có hai phần.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là đại Bồ-tát đời trước, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát đời sau, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát đời giữa, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Vì tỷ giới không sở hữu, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được; vì hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra không sở hữu, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được. Vì tỷ giới là không, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được; vì hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là không, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được. Vì tỷ giới là viễn ly, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được; vì hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là viễn ly, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được. Vì tỷ giới không tự tánh, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được; vì hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra không tự tánh, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Xá Lợi Tử! Vì trong cái không sở hữu, không, viễn ly, không tự tánh của tỷ giới, hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra, đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, đều chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Chẳng phải cái không sở hữu của tỷ giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra có sự sai khác; chẳng phải cái không của tỷ giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra có sự sai khác; chẳng phải cái viễn ly của tỷ giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra có sự sai khác; chẳng phải cái không tự tánh của tỷ giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra có sự sai khác. Chẳng phải đại Bồ-tát đời trước, có sự sai khác; chẳng phải đại Bồ-tát đời sau, có sự sai khác; chẳng phải đại Bồ-tát đời giữa, có sự sai khác.

Xá Lợi Tử! Hoặc cái không sở hữu của tỷ giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra, hoặc cái không của tỷ giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra, hoặc cái viễn ly của tỷ giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra, hoặc cái không tự tánh của tỷ giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra, hoặc đại Bồ-tát đời trước, hoặc đại Bồ-tát đời sau, hoặc đại Bồ-tát đời giữa, tất cả pháp như vậy, đều không hai, không có hai phần.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là đại Bồ-tát đời trước, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát đời sau, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát đời giữa, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Vì thiệt giới không sở hữu, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được; vì vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra không sở hữu, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được. Vì thiệt giới là không, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được; vì vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là không, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được. Vì thiệt giới là viễn ly, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được; vì vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là viễn ly, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được. Vì thiệt giới không tự tánh, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được; vì vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra không tự tánh, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Xá Lợi Tử! Vì trong cái không sở hữu, không, viễn ly, không tự tánh của thiệt giới, vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra, đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, đều chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Chẳng phải cái không sở hữu của thiệt giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra có sự sai khác; chẳng phải cái không của thiệt giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra có sự sai khác; chẳng phải cái viễn ly của thiệt giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra có sự sai khác; chẳng phải cái không tự tánh của thiệt giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra có sự sai khác. Chẳng phải đại Bồ-tát đời trước, có sự sai khác; chẳng phải đại Bồ-tát đời sau, có sự sai khác; chẳng phải đại Bồ-tát đời giữa, có sự sai khác.

Xá Lợi Tử! Hoặc cái không sở hữu của thiệt giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra, hoặc cái không của thiệt giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra, hoặc cái viễn ly của thiệt giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra, hoặc cái không tự tánh của thiệt giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra, hoặc đại Bồ-tát đời trước, hoặc đại Bồ-tát đời sau, hoặc đại Bồ-tát đời giữa, tất cả pháp như vậy, đều không hai, không có hai phần.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là đại Bồ-tát đời trước, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát đời sau, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát đời giữa, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Vì thân giới không sở hữu, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được; vì xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra không sở hữu, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được. Vì thân giới là không, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được; vì xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là không, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được. Vì thân giới là viễn ly, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được; vì xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là viễn ly, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được. Vì thân giới không tự tánh, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được; vì xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra không tự tánh, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Xá Lợi Tử! Vì trong cái không sở hữu, không, viễn ly, không tự tánh của thân giới, xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra, đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, đều chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Chẳng phải cái không sở hữu của thân giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra có sự sai khác; chẳng phải cái không của thân giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra có sự sai khác; chẳng phải cái viễn ly của thân giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra có sự sai khác; chẳng phải cái không tự tánh của thân giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra có sự sai khác. Chẳng phải đại Bồ-tát đời trước, có sự sai khác; chẳng phải đại Bồ-tát đời sau, có sự sai khác; chẳng phải đại Bồ-tát đời giữa, có sự sai khác.

Xá Lợi Tử! Hoặc cái không sở hữu của thân giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra, hoặc cái không của thân giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra, hoặc cái viễn ly của thân giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra, hoặc cái không tự tánh của thân giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra, hoặc đại Bồ-tát đời trước, hoặc đại Bồ-tát đời sau, hoặc đại Bồ-tát đời giữa, tất cả pháp như vậy, đều không hai, không có hai phần.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là đại Bồ-tát đời trước, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát đời sau, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát đời giữa, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Vì ý giới không sở hữu, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được; vì pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra không sở hữu, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được. Vì ý giới là không, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được; vì pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là không, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được. Vì ý giới là viễn ly, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được; vì pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là viễn ly, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được. Vì ý giới không tự tánh, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được; vì pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra không tự tánh, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Xá Lợi Tử! Vì trong cái không sở hữu, không, viễn ly, không tự tánh của ý giới, pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra, đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, đều chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Chẳng phải cái không sở hữu của ý giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra có sự sai khác; chẳng phải cái không của ý giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra có sự sai khác; chẳng phải cái viễn ly của ý giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra có sự sai khác; chẳng phải cái không tự tánh của ý giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra có sự sai khác. Chẳng phải đại Bồ-tát đời trước, có sự sai khác; chẳng phải đại Bồ-tát đời sau, có sự sai khác; chẳng phải đại Bồ-tát đời giữa, có sự sai khác.

Xá Lợi Tử! Hoặc cái không sở hữu của ý giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra, hoặc cái không của ý giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra, hoặc cái viễn ly của ý giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra, hoặc cái không tự tánh của ý giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra, hoặc đại Bồ-tát đời trước, hoặc đại Bồ-tát đời sau, hoặc đại Bồ-tát đời giữa, tất cả pháp như vậy, đều không hai, không có hai phần.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là đại Bồ-tát đời trước, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát đời sau, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát đời giữa, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Vì địa giới không sở hữu, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được; vì thủy, hỏa, phong, không, thức giới không sở hữu, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được. Vì địa giới là không, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được; vì thủy, hỏa, phong, không, thức giới là không, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được. Vì địa giới là viễn ly, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được; vì thủy, hỏa, phong, không, thức giới là viễn ly, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được. Vì địa giới không tự tánh, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được; vì thủy, hỏa, phong, không, thức giới không tự tánh, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Xá Lợi Tử! Vì trong cái không sở hữu, không, viễn ly, không tự tánh của địa, thủy, hỏa, phong, không, thức giới, đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, đều chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Chẳng phải cái không sở hữu của địa, thủy, hỏa, phong, không, thức giới có sự sai khác; chẳng phải cái không của địa, thủy, hỏa, phong, không, thức giới có sự sai khác; chẳng phải cái viễn ly của địa, thủy, hỏa, phong, không, thức giới có sự sai khác; chẳng phải cái không tự tánh của địa, thủy, hỏa, phong, không, thức giới có sự sai khác. Chẳng phải đại Bồ-tát đời trước, có sự sai khác; chẳng phải đại Bồ-tát đời sau, có sự sai khác; chẳng phải đại Bồ-tát đời giữa, có sự sai khác.

Xá Lợi Tử! Hoặc cái không sở hữu của địa, thủy, hỏa, phong, không, thức giới, hoặc cái không của địa, thủy, hỏa, phong, không, thức giới, hoặc cái viễn ly của địa, thủy, hỏa, phong, không, thức giới, hoặc cái không tự tánh của địa, thủy, hỏa, phong, không, thức giới, hoặc đại Bồ-tát đời trước, hoặc đại Bồ-tát đời sau, hoặc đại Bồ-tát đời giữa, tất cả pháp như vậy, đều không hai, không có hai phần.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là đại Bồ-tát đời trước, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát đời sau, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát đời giữa, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Vì Thánh đế khổ không sở hữu, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được; vì Thánh đế tập, diệt, đạo không sở hữu, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được. Vì Thánh đế khổ là không, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được; vì Thánh đế tập, diệt, đạo là không, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được. Vì Thánh đế khổ là viễn ly, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được; vì Thánh đế tập, diệt, đạo là viễn ly, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được. Vì Thánh đế khổ không tự tánh, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được; vì Thánh đế tập, diệt, đạo không tự tánh, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Xá Lợi Tử! Vì trong cái không sở hữu, không, viễn ly, không tự tánh của Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo, đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, đều chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Chẳng phải cái không sở hữu của Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo có sự sai khác; chẳng phải cái không của Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo có sự sai khác; chẳng phải cái viễn ly của Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo có sự sai khác; chẳng phải cái không tự tánh của Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo có sự sai khác. Chẳng phải đại Bồ-tát đời trước, có sự sai khác; chẳng phải đại Bồ-tát đời sau, có sự sai khác; chẳng phải đại Bồ-tát đời giữa, có sự sai khác.

Xá Lợi Tử! Hoặc cái không sở hữu của Thánh đế tập, diệt, đạo, hoặc cái không của Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo, hoặc cái viễn ly của Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo, hoặc cái không tự tánh của Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo, hoặc đại Bồ-tát đời trước, hoặc đại Bồ-tát đời sau, hoặc đại Bồ-tát đời giữa, tất cả pháp như vậy, đều không hai, không có hai phần.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là đại Bồ-tát đời trước, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát đời sau, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát đời giữa, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Vì vô minh không sở hữu, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được; vì hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não không sở hữu, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được. Vì vô minh là không, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được; vì hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não là không, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được. Vì vô minh là viễn ly, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được; vì hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não là viễn ly, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được. Vì vô minh không tự tánh, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được; vì hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não không tự tánh, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Xá Lợi Tử! Vì trong cái không sở hữu, không, viễn ly, không tự tánh của vô minh, hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não, đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, đều chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Chẳng phải cái không sở hữu của vô minh cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não có sự sai khác; chẳng phải cái không của vô minh cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não có sự sai khác; chẳng phải cái viễn ly của vô minh cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não có sự sai khác; chẳng phải cái không tự tánh của vô minh cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não có sự sai khác. Chẳng phải đại Bồ-tát đời trước, có sự sai khác; chẳng phải đại Bồ-tát đời sau, có sự sai khác; chẳng phải đại Bồ-tát đời giữa, có sự sai khác.

Xá Lợi Tử! Hoặc cái không sở hữu của vô minh cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não, hoặc cái không của vô minh cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não, hoặc cái viễn ly của vô minh cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não, hoặc cái không tự tánh của vô minh cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não, hoặc đại Bồ-tát đời trước, hoặc đại Bồ-tát đời sau, hoặc đại Bồ-tát đời giữa, tất cả pháp như vậy, đều không hai, không có hai phần.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là đại Bồ-tát đời trước, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát đời sau, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát đời giữa, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Vì bố thí Ba-la-mật-đa không sở hữu, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được; vì tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa không sở hữu, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được. Vì bố thí Ba-la-mật-đa là không, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được; vì tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa là không, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được. Vì bố thí Ba-la-mật-đa là viễn ly, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được; vì tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa là viễn ly, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được. Vì bố thí Ba-la-mật-đa không tự tánh, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được; vì tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa không tự tánh, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Xá Lợi Tử! Vì trong cái không sở hữu, không, viễn ly, không tự tánh của bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, đều chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Chẳng phải cái không sở hữu của bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa có sự sai khác; chẳng phải cái không của bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa có sự sai khác; chẳng phải cái viễn ly của bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa có sự sai khác; chẳng phải cái không tự tánh của bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa có sự sai khác. Chẳng phải đại Bồ-tát đời trước, có sự sai khác; chẳng phải đại Bồ-tát đời sau, có sự sai khác; chẳng phải đại Bồ-tát đời giữa, có sự sai khác.

Xá Lợi Tử! Hoặc cái không sở hữu của bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, hoặc cái không của bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, hoặc cái viễn ly của bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, hoặc cái không tự tánh của bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, hoặc đại Bồ-tát đời trước, hoặc đại Bồ-tát đời sau, hoặc đại Bồ-tát đời giữa, tất cả pháp như vậy, đều không hai, không có hai phần.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là đại Bồ-tát đời trước, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát đời sau, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát đời giữa, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Vì bốn tịnh lự không sở hữu, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được; vì bốn vô lượng, bốn định vô sắc không sở hữu, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được. Vì bốn tịnh lự là không, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được; vì bốn vô lượng, bốn định vô sắc là không, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được. Vì bốn tịnh lự là viễn ly, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được; vì bốn vô lượng, bốn định vô sắc là viễn ly, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được. Vì bốn tịnh lự không tự tánh, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được; vì bốn vô lượng, bốn định vô sắc không tự tánh, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Xá Lợi Tử! Vì trong cái không sở hữu, không, viễn ly, không tự tánh của bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, đều chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Chẳng phải cái không sở hữu của bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc có sự sai khác; chẳng phải cái không của bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc có sự sai khác; chẳng phải cái viễn ly của bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc có sự sai khác; chẳng phải cái không tự tánh của bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc có sự sai khác. Chẳng phải đại Bồ-tát đời trước, có sự sai khác; chẳng phải đại Bồ-tát đời sau, có sự sai khác; chẳng phải đại Bồ-tát đời giữa, có sự sai khác.

Xá Lợi Tử! Hoặc cái không sở hữu của bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, hoặc cái không của bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, hoặc cái viễn ly của bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, hoặc cái không tự tánh của bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, hoặc đại Bồ-tát đời trước, hoặc đại Bồ-tát đời sau, hoặc đại Bồ-tát đời giữa, tất cả pháp như vậy, đều không hai, không có hai phần.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là đại Bồ-tát đời trước, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát đời sau, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát đời giữa, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Vì tám giải thoát không sở hữu, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được; vì tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ không sở hữu, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được. Vì tám giải thoát là không, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được; vì tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ là không, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được. Vì tám giải thoát là viễn ly, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được; vì tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ là viễn ly, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được. Vì tám giải thoát không tự tánh, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được; vì tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ không tự tánh, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Xá Lợi Tử! Vì trong cái không sở hữu, không, viễn ly, không tự tánh của tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, đều chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Chẳng phải cái không sở hữu của tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ có sự sai khác; chẳng phải cái không của tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ có sự sai khác; chẳng phải cái viễn ly của tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ có sự sai khác; chẳng phải cái không tự tánh của tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ có sự sai khác. Chẳng phải đại Bồ-tát đời trước, có sự sai khác; chẳng phải đại Bồ-tát đời sau, có sự sai khác; chẳng phải đại Bồ-tát đời giữa, có sự sai khác.

Xá Lợi Tử! Hoặc cái không sở hữu của tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, hoặc cái không của tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, hoặc cái viễn ly của tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, hoặc cái không tự tánh của tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, hoặc đại Bồ-tát đời trước, hoặc đại Bồ-tát đời sau, hoặc đại Bồ-tát đời giữa, tất cả pháp như vậy, đều không hai, không có hai phần.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là đại Bồ-tát đời trước, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát đời sau, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát đời giữa, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Vì bốn niệm trụ không sở hữu, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được; vì bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo không sở hữu, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được. Vì bốn niệm trụ là không, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được; vì bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo là không, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được. Vì bốn niệm trụ là viễn ly, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được; vì bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo là viễn ly, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được. Vì bốn niệm trụ không tự tánh, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được; vì bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo không tự tánh, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Xá Lợi Tử! Vì trong cái không sở hữu, không, viễn ly, không tự tánh của bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, đều chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Chẳng phải cái không sở hữu của bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo có sự sai khác; chẳng phải cái không của bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo có sự sai khác; chẳng phải cái viễn ly của bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo có sự sai khác; chẳng phải cái không tự tánh của bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo có sự sai khác. Chẳng phải đại Bồ-tát đời trước, có sự sai khác; chẳng phải đại Bồ-tát đời sau, có sự sai khác; chẳng phải đại Bồ-tát đời giữa, có sự sai khác.

Xá Lợi Tử! Hoặc cái không sở hữu của bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo, hoặc cái không của bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo, hoặc cái viễn ly của bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo, hoặc cái không tự tánh của bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo, hoặc đại Bồ-tát đời trước, hoặc đại Bồ-tát đời sau, hoặc đại Bồ-tát đời giữa, tất cả pháp như vậy, đều không hai, không có hai phần.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là đại Bồ-tát đời trước, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát đời sau, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát đời giữa, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Vì pháp môn giải thoát không không sở hữu, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được; vì pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện không sở hữu, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được. Vì pháp môn giải thoát không là không, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được; vì pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện là không, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được. Vì pháp môn giải thoát không là viễn ly, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được; vì pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện là viễn ly, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được. Vì pháp môn giải thoát không không tự tánh, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được; vì pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện không tự tánh, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Xá Lợi Tử! Vì trong cái không sở hữu, không, viễn ly, không tự tánh của pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện, đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, đều chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Chẳng phải cái không sở hữu của pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện có sự sai khác; chẳng phải cái không của pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện có sự sai khác; chẳng phải cái viễn ly của pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện có sự sai khác; chẳng phải cái không tự tánh của pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện có sự sai khác. Chẳng phải đại Bồ-tát đời trước, có sự sai khác; chẳng phải đại Bồ-tát đời sau, có sự sai khác; chẳng phải đại Bồ-tát đời giữa, có sự sai khác.

Xá Lợi Tử! Hoặc cái không sở hữu của pháp môn giải thoát không vô tướng, vô nguyện, hoặc cái không của pháp môn giải thoát không vô tướng, vô nguyện, hoặc cái viễn ly của pháp môn giải thoát không vô tướng, vô nguyện, hoặc cái không tự tánh của pháp môn giải thoát không vô tướng, vô nguyện, hoặc đại Bồ-tát đời trước, hoặc đại Bồ-tát đời sau, hoặc đại Bồ-tát đời giữa, tất cả pháp như vậy, đều không hai, không có hai phần.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là đại Bồ-tát đời trước, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát đời sau, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát đời giữa, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Vì năm loại mắt không sở hữu, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được; vì sáu phép thần thông không sở hữu, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được. Vì năm loại mắt là không, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được; vì sáu phép thần thông là không, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được. Vì năm loại mắt là viễn ly, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được; vì sáu phép thần thông là viễn ly, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được. Vì năm loại mắt không tự tánh, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được; vì sáu phép thần thông không tự tánh, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Xá Lợi Tử! Vì trong cái không sở hữu, không, viễn ly, không tự tánh của năm loại mắt, sáu phép thần thông, đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, đều chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Chẳng phải cái không sở hữu của năm loại mắt, sáu phép thần thông có sự sai khác; chẳng phải cái không của năm loại mắt, sáu phép thần thông có sự sai khác; chẳng phải cái viễn ly của năm loại mắt, sáu phép thần thông có sự sai khác; chẳng phải cái không tự tánh của năm loại mắt, sáu phép thần thông có sự sai khác. Chẳng phải đại Bồ-tát đời trước, có sự sai khác; chẳng phải đại Bồ-tát đời sau, có sự sai khác; chẳng phải đại Bồ-tát đời giữa, có sự sai khác.

Xá Lợi Tử! Hoặc cái không sở hữu của năm loại mắt sáu phép thần thông, hoặc cái không của năm loại mắt sáu phép thần thông, hoặc cái viễn ly của năm loại mắt sáu phép thần thông, hoặc cái không tự tánh của năm loại mắt sáu phép thần thông, hoặc đại Bồ-tát đời trước, hoặc đại Bồ-tát đời sau, hoặc đại Bồ-tát đời giữa, tất cả pháp như vậy, đều không hai, không có hai phần.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là đại Bồ-tát đời trước, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát đời sau, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát đời giữa, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Vì mười lực của Phật không sở hữu, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được; vì bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng không sở hữu, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được. Vì mười lực của Phật là không, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được; vì bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là không, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được. Vì mười lực của Phật là viễn ly, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được; vì bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là viễn ly, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được. Vì mười lực của Phật không tự tánh, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được; vì bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng không tự tánh, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Xá Lợi Tử! Vì trong cái không sở hữu, không, viễn ly, không tự tánh của mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, đều chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Chẳng phải cái không sở hữu của mười lực Phật cho đến trí nhất thiết tướng có sự sai khác; chẳng phải cái không của mười lực Phật cho đến trí nhất thiết tướng có sự sai khác; chẳng phải cái viễn ly của mười lực Phật cho đến trí nhất thiết tướng có sự sai khác; chẳng phải cái không tự tánh của mười lực Phật cho đến trí nhất thiết tướng có sự sai khác. Chẳng phải đại Bồ-tát đời trước, có sự sai khác; chẳng phải đại Bồ-tát đời sau, có sự sai khác; chẳng phải đại Bồ-tát đời giữa, có sự sai khác.

Xá Lợi Tử! Hoặc cái không sở hữu của mười lực Phật cho đến trí nhất thiết tướng, hoặc cái không của mười lực Phật cho đến trí nhất thiết tướng, hoặc cái viễn ly của mười lực Phật cho đến trí nhất thiết tướng, hoặc cái không tự tánh của mười lực Phật cho đến trí nhất thiết tướng, hoặc đại Bồ-tát đời trước, hoặc đại Bồ-tát đời sau, hoặc đại Bồ-tát đời giữa, tất cả pháp như vậy, đều không hai, không có hai phần.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là đại Bồ-tát đời trước, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát đời sau, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát đời giữa, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Vì pháp không quên mất không sở hữu, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được; vì tánh luôn luôn xả không sở hữu, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được. Vì pháp không quên mất là không, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được; vì tánh luôn luôn xả là không, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được. Vì pháp không quên mất là viễn ly, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được; vì tánh luôn luôn xả là viễn ly, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được. Vì pháp không quên mất không tự tánh, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được; vì tánh luôn luôn xả không tự tánh, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Xá Lợi Tử! Vì trong cái không sở hữu, không, viễn ly, không tự tánh của pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả, đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, đều chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Chẳng phải cái không sở hữu của pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả có sự sai khác; chẳng phải cái không của pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả có sự sai khác; chẳng phải cái viễn ly của pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả có sự sai khác; chẳng phải cái không tự tánh của pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả có sự sai khác. Chẳng phải đại Bồ-tát đời trước, có sự sai khác; chẳng phải đại Bồ-tát đời sau, có sự sai khác; chẳng phải đại Bồ-tát đời giữa, có sự sai khác.

Xá Lợi Tử! Hoặc cái không sở hữu của pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả, hoặc cái không của pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả, hoặc cái viễn ly của pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả, hoặc cái không tự tánh của pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả, hoặc đại Bồ-tát đời trước, hoặc đại Bồ-tát đời sau, hoặc đại Bồ-tát đời giữa, tất cả pháp như vậy, đều không hai, không có hai phần.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là đại Bồ-tát đời trước, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát đời sau, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát đời giữa, chẳng thể nắm bắt được.

 

Quyển thứ 62

Hết

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/02/2013(Xem: 10375)
Từ những con người bình thường, không được sinh ra ở cung vàng điện ngọc, nhưng rồi trở thành những vị vua anh minh tài kiêm văn võ, tư tưởng và nhân cách cao siêu, mãi còn đọng lại với thời gian. Dù sống ở hoàng cung nhưng tâm lúc nào cũng vượt thoát, làm bậc đế vương nhưng hạnh vẫn là một sơn Tăng, ưa vui với gió nội mây ngàn, thở nhịp cùng đất trời nhân gian cây cỏ. Để rồi trở thành những người con Phật vĩ đại, trí tuệ và công hạnh thắm đượm cả không gian, thức tỉnh chúng ta trên bến bờ sinh tử của mê ngộ, đậm nét trong lòng người đến tận hôm nay. Bồ Tát Lương Võ Đế ( 463-549 ) của Trung Hoa và Trần Thái Tông ( 1218-1277) của Việt Nam, dù ở hai phương trời xa cách, sinh ra ở hai thời điểm khác nhau, nhưng cùng chung một tấm lòng, mang an lạc thịnh vượng đến cho nhân dân, và một hạnh nguyện chuyển hoá cứu độ quần sanh.
07/02/2013(Xem: 18808)
Nửa thế kỷ Tôn Sư vắng bóng, Ánh Đạo Vàng tỏa rộng muôn phương Hôm nay tổ chức huy hoàn Hằng năm kỷ niệm, đàn tràng tôn nghiêm. Môn đồ Tứ chúng ngưỡng chiêm,
06/02/2013(Xem: 7746)
Hòa thượng Bích Liên, thế danh là Nguyễn Trọng Khải, hiệu Mai Đình (Thận Thần Thị), sinh ngày 16 tháng 3 năm Bính Tý (1876), tại làng Háo Đức, phủ An Nhơn, nay là ấp Háo Đức, xã Nhơn An, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Ngài sinh trưởng trong một gia đình nho học, được theo nghiệp bút nghiên từ nhỏ. Cha là Tú Tài Nguyễn Tự, mẹ là bà Lâm Thị Hòa Nghị . Năm 20 tuổi, Ngài lập gia đình với cô Lê Thị Hồng Kiều, người làng An Hòa, (nay thuộc xã Nhơn Khánh cùng huyện). Năm 31 tuổi, Ngài lều chõng vào trường thi Hương Bình Định và đỗ Tú Tài. Ba năm sau, Ngài lại đỗ Tú Tài lần nữa. Từ đó, biết mình long đong trên bước đường khoa bảng, Ngài giã từ lều chõng, ở nhà mở trường dạy học, mượn trăng thanh gió mát di dưỡng tính tình, lấy chén rượu câu thơ vui cùng tuế nguyệt.
03/02/2013(Xem: 6563)
Tuệ Sỹ là ai mà thơ hào sảng, hùng tâm tráng khí như thế ? Tuệ Sỹ quê Quảng Bình, sinh năm 1943, nhỏ hơn Phạm Công Thiện 2 tuổi, cũng là một bậc thiên tài xuất chúng, làu thông kinh điển Nguyên thủy, Đại thừa và nhiều thứ tiếng Anh, Pháp, Đức, Hán, Phạn, Pali. Khi mới vừa 26 tuổi đã viết Triết học về Tánh Không làm chấn động giới văn nghệ sĩ, học giả, thiện tri thức Việt Nam thời bấy giờ.
20/01/2013(Xem: 6036)
Phạm Công Thiện(1/6/1941 - 8/3/2011), là một nhà văn, triết gia, học giả, thi sĩ và cư sĩ Phật Giáo người Việt Nam với pháp danh Thích Nguyên Tánh. Tuy nhận mình là nhà thơ và phủ nhận nghề triết gia, ông vẫn được coi là một triết gia thần đồng, một hiện tượng dị thường của Sài Gòn thập niên 60 và của Việt Nam với những tư tưởng ít người hiểu và được bộc phát từ hồi còn rất trẻ. Dưới đây là bài viết của Tâm Nhiên nhân sắp đến ngày giỗ của ông.
12/01/2013(Xem: 6598)
Đã có rất nhiều sách vở, bài viết hoặc với tính chất nghiên cứu, hoặc là các bài giảng phổ cập bàn về tông Thiên Thai và kinh Pháp Hoa. Bài viết này nói đến vai trò, vị trí của Đại sư Trí Khải và tông Thiên Thai trong lịch sử Phật giáo, cũng như trong nền văn hóa tư tưởng của toàn thể nhân loại. Đại sư Trí Khải sinh năm 538, vào thời đại mà sau này các sử gia gọi là Nam Bắc triều (220-589). Sông Dương Tử được lấy làm gianh giới phân chia giữa hai miền Nam và Bắc. Trong thiền sử, ta thường nghe nói đến câu Nam Năng (Huệ Năng)-Bắc Tú (Thần Tú), để phân biệt hai dòng thiền: Đại sư Thần Tú xiển dương Thiền tiệm ngộ ngay tại Trường An; Đại sư Huệ Năng phát triển Thiền đốn ngộ tại vùng Quảng Đông và lân cận. Bấy giờ Trung Hoa bị chia thành nhiều nước nhỏ, nước này xâm lăng và thôn tính nước kia, gây nên nhiều cuộc chiến tương tàn, dân chúng sống trong cảnh lầm than đau khổ.
07/01/2013(Xem: 7195)
Phần lớn độc giả biết nhiều đến các tiểu luận và các tập thơ phản chiến, nhưng ít người biết đến những bài thơ Thiền của Nhất Hạnh. Tôi xin trích một bài được nhà xuất bản Unicorn Press xuất bản trong tâp thơ Zen Poems của Nhất Hạnh vào năm 1976 (bản dịch Anh Ngữ) của Võ Đình. Bài này được in vào tuyển tập thơ nhạc họa vào mùa Phật Đản 1964
10/12/2012(Xem: 7004)
Cả cuộc đời 86 tuổi của Ngài Đội trời đạp đất, đã tròn chưa bản nguyện Kiếp tu hành 81 năm của Ngài Gánh vác hy sinh...
09/10/2012(Xem: 11322)
Thiền sư Lê Mạnh Thátcho rằng Vua Trần Nhân Tông là một nhân vật tiêu biểu trong lịch sử Việt Nam nhất là vì tư tưởng hòa giải dân tộc của ông vẫn còn tính thời sự. Trả lời câu hỏi của BBC vì sao tư tưởng của Trần Nhân Tông (trị vì từ năm 1278-1293) và là Phật Hoàng, sáng lập ra phái thiền phái Trúc Lâm vẫn còn có tính thời sự đối với Việt Nam và cả quan hệ Mỹ - Việt cũng như Việt - Trung, Tiến sỹ Lê Mạnh Thát nói:
01/10/2012(Xem: 6352)
Kính bạch Giác Linh Đức Thầy, Dẫu biết rằng: “Cuộc đời là ảo mộng, vạn vật vốn vô thường, chuyển di không ngừng nghỉ, biến diệt lẽ tự nhiên, tử sanh không tránh khỏi.” Nhưng ân đức cao dày, tình thương nồng thắm, Đức Thầy đã ban cho hàng đệ tử chúng con, chẳng những được kết thành giới thân huệ mạng, mà còn mang lại cho cuộc đời giải thoát của chúng con vô vàn hạnh phúc… Ân đức ấy, mãi mãi khắc sâu vào cuộc đời tu học của chúng con vô cùng vững chắc, dù cho thời gian, sự vô thường có thay đổi...
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]