Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Quyển 168: Phẩm So Sánh Công Đức 66, Phẩm Tùy Hỷ Hồi Hướng 1

08/07/201509:54(Xem: 14602)
Quyển 168: Phẩm So Sánh Công Đức 66, Phẩm Tùy Hỷ Hồi Hướng 1

Tập 03
Quyển 168
Phẩm So Sánh Công Đức 66

Bản dịch của HT Thích Trí Nghiêm
Diễn đọc: Cư Sĩ Chánh Trí



 

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Để riêng các loại hữu tình ở các châu Thiệm bộ, Đông thắng thân, Tây ngưu hóa, nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... giáo hóa các loại hữu tình trong cả bốn châu Thiệm bộ, Đông thắng thân, Tây ngưu hóa, Bắc cu lô đều hướng đến quả vị giác ngộ cao tột; lại dùng vô lượng pháp môn Bát-nhã-ba-la-mật-đa, văn nghĩa xảo diệu, vì họ rộng nói, diễn đạt chỉ bày, giải thích rõ ràng, phân biệt nghĩa thú, khiến họ dễ hiểu; và nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... giáo hóa một hữu tình, đối với quả vị giác ngộ cao tột đắc bất thối chuyển; lại dùng vô lượng pháp môn Bát-nhã-ba-la-mật-đa, văn nghĩa xảo diệu, vì họ rộng nói, diễn đạt chỉ bày, giải thích rõ ràng, phân biệt nghĩa thú, khiến họ dễ hiểu, thì này Kiều Thi Ca! Hàng thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v… nói sau đạt được công đức hơn trước rất nhiều.

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Để riêng các loại hữu tình ở bốn đại châu, nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... giáo hóa các loại hữu tình trong Tiểu thiên thế giới đều hướng đến quả vị giác ngộ cao tột; lại dùng vô lượng pháp môn Bát-nhã-ba-la-mật-đa, văn nghĩa xảo diệu, vì họ rộng nói, diễn đạt chỉ bày, giải thích rõ ràng, phân biệt nghĩa thú, khiến họ dễ hiểu; và nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... giáo hóa một hữu tình, đối với quả vị giác ngộ cao tột đắc bất thối chuyển; lại dùng vô lượng pháp môn Bát-nhã-ba-la-mật-đa, văn nghĩa xảo diệu, vì họ rộng nói, diễn đạt chỉ bày, giải thích rõ ràng, phân biệt nghĩa thú, khiến họ dễ hiểu, thì này Kiều Thi Ca! Hàng thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v… nói sau đạt được công đức hơn trước rất nhiều.

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Để riêng các loại hữu tình ở Tiểu thiên thế giới, nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... giáo hóa các loại hữu tình trong Trung thiên thế giới đều hướng đến quả vị giác ngộ cao tột; lại dùng vô lượng pháp môn Bát-nhã-ba-la-mật-đa, văn nghĩa xảo diệu, vì họ rộng nói, diễn đạt chỉ bày, giải thích rõ ràng, phân biệt nghĩa thú, khiến họ dễ hiểu; và nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... giáo hóa một hữu tình, đối với quả vị giác ngộ cao tột đắc bất thối chuyển; lại dùng vô lượng pháp môn Bát-nhã-ba-la-mật-đa, văn nghĩa xảo diệu, vì họ rộng nói, diễn đạt chỉ bày, giải thích rõ ràng, phân biệt nghĩa thú, khiến họ dễ hiểu, thì này Kiều Thi Ca! Hàng thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v… nói sau đạt được công đức hơn trước rất nhiều.

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Để riêng các loại hữu tình ở Trung thiên thế giới, nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... giáo hóa các loại hữu tình trong Tam thiên đại thiên thế giới này đều hướng đến quả vị giác ngộ cao tột; lại dùng vô lượng pháp môn Bát-nhã-ba-la-mật-đa, văn nghĩa xảo diệu, vì họ rộng nói, diễn đạt chỉ bày, giải thích rõ ràng, phân biệt nghĩa thú, khiến họ dễ hiểu; và nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... giáo hóa một hữu tình, đối với quả vị giác ngộ cao tột đắc bất thối chuyển; lại dùng vô lượng pháp môn Bát-nhã-ba-la-mật-đa, văn nghĩa xảo diệu, vì họ rộng nói, diễn đạt chỉ bày, giải thích rõ ràng, phân biệt nghĩa thú, khiến họ dễ hiểu, thì này Kiều Thi Ca! Hàng thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v… nói sau đạt được công đức hơn trước rất nhiều.

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Để riêng các loại hữu tình ở Tam thiên đại thiên thế giới này, nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... giáo hóa các loại hữu tình ở vô số thế giới trong mười phương đều hướng đến quả vị giác ngộ cao tột; lại dùng vô lượng pháp môn Bát-nhã-ba-la-mật-đa, văn nghĩa xảo diệu, vì họ rộng nói, diễn đạt chỉ bày, giải thích rõ ràng, phân biệt nghĩa thú, khiến họ dễ hiểu; và nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... giáo hóa một hữu tình, đối với quả vị giác ngộ cao tột đắc bất thối chuyển; lại dùng vô lượng pháp môn Bát-nhã-ba-la-mật-đa, văn nghĩa xảo diệu, vì họ rộng nói, diễn đạt chỉ bày, giải thích rõ ràng, phân biệt nghĩa thú, khiến họ dễ hiểu, thì này Kiều Thi Ca! Hàng thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v… nói sau đạt được công đức hơn trước rất nhiều.

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Để riêng các loại hữu tình ở vô số thế giới trong mười phương, nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... giáo hóa các loại hữu tình ở tất cả thế giới trong mười phương đều hướng đến quả vị giác ngộ cao tột; lại dùng vô lượng pháp môn Bát-nhã-ba-la-mật-đa, văn nghĩa xảo diệu, vì họ rộng nói, diễn đạt chỉ bày, giải thích rõ ràng, phân biệt nghĩa thú, khiến họ dễ hiểu; và nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... giáo hóa một hữu tình, đối với quả vị giác ngộ cao tột đắc bất thối chuyển; lại dùng vô lượng pháp môn Bát-nhã-ba-la-mật-đa, văn nghĩa xảo diệu, vì họ rộng nói, diễn đạt chỉ bày, giải thích rõ ràng, phân biệt nghĩa thú, khiến họ dễ hiểu, thì này Kiều Thi Ca! Hàng thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v… nói sau đạt được công đức hơn trước rất nhiều.

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... giáo hóa các loại hữu tình ở châu Thiệm bộ, đối với quả vị giác ngộ cao tột đều đắc bất thối chuyển; lại dùng vô lượng pháp môn Bát-nhã-ba-la-mật-đa, văn nghĩa xảo diệu, vì họ rộng nói, diễn đạt chỉ bày, giải thích rõ ràng, phân biệt nghĩa thú, khiến họ dễ hiểu; và nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... khuyên một trong số đó mau hướng đến quả vị giác ngộ cao tột, thuyết pháp Tam-thừa, cứu độ tất cả; lại dùng vô lượng pháp môn Bát-nhã-ba-la-mật-đa, văn nghĩa xảo diệu, vì họ rộng nói, diễn đạt chỉ bày, giải thích rõ ràng, phân biệt nghĩa thú, khiến họ dễ hiểu, thì này Kiều Thi Ca! Hàng thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v… nói sau đạt được công đức hơn trước rất nhiều. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì đại Bồ-tát trụ bậc bất thối chuyển chẳng cần nương nhờ pháp sở thuyết. Đối với quả vị giác ngộ cao tột, quyết định hướng đến, đối với quả vị đại Bồ-đề bất thối chuyển, đại Bồ-tát cầu chóng đạt đến đại Bồ-đề, thì cần phải nương nhờ pháp sở thuyết; đối với quả vị giác ngộ cao tột, cầu mau đạt đến, thì nên quán khổ sanh tử của tất cả hữu tình, vận dụng tâm đại bi vô cùng thống thiết.

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Để riêng các loại hữu tình ở châu Thiệm bộ, nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... giáo hóa các loại hữu tình trong cả hai châu Thiệm bộ, Đông thắng thân, đối với quả vị giác ngộ cao tột đều đắc bất thối chuyển; lại dùng vô lượng pháp môn Bát-nhã-ba-la-mật-đa, văn nghĩa xảo diệu, vì họ rộng nói, diễn đạt chỉ bày, giải thích rõ ràng, phân biệt nghĩa thú, khiến họ dễ hiểu; và nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... khuyên một trong số đó mau hướng đến quả vị giác ngộ cao tột, thuyết pháp Tam-thừa, cứu độ tất cả; lại dùng vô lượng pháp môn Bát-nhã-ba-la-mật-đa, văn nghĩa xảo diệu, vì họ rộng nói, diễn đạt chỉ bày, giải thích rõ ràng, phân biệt nghĩa thú, khiến họ dễ hiểu, thì này Kiều Thi Ca! Hàng thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v… nói sau đạt được công đức hơn trước rất nhiều. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì đại Bồ-tát trụ bậc bất thối chuyển chẳng cần nương nhờ pháp sở thuyết. Đối với quả vị giác ngộ cao tột, quyết định hướng đến, đối với quả vị đại Bồ-đề bất thối chuyển, đại Bồ-tát cầu chóng đạt đến đại Bồ-đề, thì cần phải nương nhờ pháp sở thuyết; đối với quả vị giác ngộ cao tột, cầu mau đạt đến, thì nên quán khổ sanh tử của tất cả hữu tình, vận dụng tâm đại bi vô cùng thống thiết.

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Để riêng các loại hữu tình ở các châu Thiệm bộ, Đông thắng thân, nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... giáo hóa các loại hữu tình trong cà ba châu Thiệm bộ, Đông thắng thân, Tây ngưu hóa, đối với quả vị giác ngộ cao tột đều đắc bất thối chuyển; lại dùng vô lượng pháp môn Bát-nhã-ba-la-mật-đa, văn nghĩa xảo diệu, vì họ rộng nói, diễn đạt chỉ bày, giải thích rõ ràng, phân biệt nghĩa thú, khiến họ dễ hiểu; và nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... khuyên một trong số đó mau hướng đến quả vị giác ngộ cao tột, thuyết pháp Tam-thừa, cứu độ tất cả; lại dùng vô lượng pháp môn Bát-nhã-ba-la-mật-đa, văn nghĩa xảo diệu, vì họ rộng nói, diễn đạt chỉ bày, giải thích rõ ràng, phân biệt nghĩa thú, khiến họ dễ hiểu, thì này Kiều Thi Ca! Hàng thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v… nói sau đạt được công đức hơn trước rất nhiều. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì đại Bồ-tát trụ bậc bất thối chuyển chẳng cần nương nhờ pháp sở thuyết. Đối với quả vị giác ngộ cao tột, quyết định hướng đến, đối với quả vị đại Bồ-đề bất thối chuyển, đại Bồ-tát cầu chóng đạt đến đại Bồ-đề, thì cần phải nương nhờ pháp sở thuyết; đối với quả vị giác ngộ cao tột, cầu mau đạt đến, thì nên quán khổ sanh tử của tất cả hữu tình, vận dụng tâm đại bi vô cùng thống thiết.

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Để riêng các loại hữu tình ở các châu Thiệm bộ, Đông thắng thân, Tây ngưu hóa, nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... giáo hóa các loại hữu tình trong cả bốn châu Thiệm bộ, Đông thắng thân, Tây ngưu hóa, Bắc cu lô, đối với quả vị giác ngộ cao tột đều đắc bất thối chuyển; lại dùng vô lượng pháp môn Bát-nhã-ba-la-mật-đa, văn nghĩa xảo diệu, vì họ rộng nói, diễn đạt chỉ bày, giải thích rõ ràng, phân biệt nghĩa thú, khiến họ dễ hiểu; và nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... khuyên một trong số đó mau hướng đến quả vị giác ngộ cao tột, thuyết pháp Tam-thừa, cứu độ tất cả; lại dùng vô lượng pháp môn Bát-nhã-ba-la-mật-đa, văn nghĩa xảo diệu, vì họ rộng nói, diễn đạt chỉ bày, giải thích rõ ràng, phân biệt nghĩa thú, khiến họ dễ hiểu, thì này Kiều Thi Ca! Hàng thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v… nói sau đạt được công đức hơn trước rất nhiều. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì đại Bồ-tát trụ bậc bất thối chuyển chẳng cần nương nhờ pháp sở thuyết. Đối với quả vị giác ngộ cao tột, quyết định hướng đến, đối với quả vị đại Bồ-đề bất thối chuyển, đại Bồ-tát cầu chóng đạt đến đại Bồ-đề, thì cần phải nương nhờ pháp sở thuyết; đối với quả vị giác ngộ cao tột, cầu mau đạt đến, thì nên quán khổ sanh tử của tất cả hữu tình, vận dụng tâm đại bi vô cùng thống thiết.

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Để riêng các loại hữu tình ở bốn đại châu, nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... giáo hóa các loại hữu tình trong Tiểu thiên thế giới, đối với quả vị giác ngộ cao tột đều đắc bất thối chuyển; lại dùng vô lượng pháp môn Bát-nhã-ba-la-mật-đa, văn nghĩa xảo diệu, vì họ rộng nói, diễn đạt chỉ bày, giải thích rõ ràng, phân biệt nghĩa thú, khiến họ dễ hiểu; và nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... khuyên một trong số đó mau hướng đến quả vị giác ngộ cao tột, thuyết pháp Tam-thừa, cứu độ tất cả; lại dùng vô lượng pháp môn Bát-nhã-ba-la-mật-đa, văn nghĩa xảo diệu, vì họ rộng nói, diễn đạt chỉ bày, giải thích rõ ràng, phân biệt nghĩa thú, khiến họ dễ hiểu, thì này Kiều Thi Ca! Hàng thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v… nói sau đạt được công đức hơn trước rất nhiều. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì đại Bồ-tát trụ bậc bất thối chuyển chẳng cần nương nhờ pháp sở thuyết. Đối với quả vị giác ngộ cao tột, quyết định hướng đến, đối với quả vị đại Bồ-đề bất thối chuyển, đại Bồ-tát cầu chóng đạt đến đại Bồ-đề, thì cần phải nương nhờ pháp sở thuyết; đối với quả vị giác ngộ cao tột, cầu mau đạt đến, thì nên quán khổ sanh tử của tất cả hữu tình, vận dụng tâm đại bi vô cùng thống thiết.

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Để riêng các loại hữu tình ở Tiểu thiên thế giới, nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... giáo hóa các loại hữu tình trong Trung thiên thế giới, đối với quả vị giác ngộ cao tột đều đắc bất thối chuyển; lại dùng vô lượng pháp môn Bát-nhã-ba-la-mật-đa, văn nghĩa xảo diệu, vì họ rộng nói, diễn đạt chỉ bày, giải thích rõ ràng, phân biệt nghĩa thú, khiến họ dễ hiểu; và nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... khuyên một trong số đó mau hướng đến quả vị giác ngộ cao tột, thuyết pháp Tam-thừa, cứu độ tất cả; lại dùng vô lượng pháp môn Bát-nhã-ba-la-mật-đa, văn nghĩa xảo diệu, vì họ rộng nói, diễn đạt chỉ bày, giải thích rõ ràng, phân biệt nghĩa thú, khiến họ dễ hiểu, thì này Kiều Thi Ca! Hàng thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v… nói sau đạt được công đức hơn trước rất nhiều. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì đại Bồ-tát trụ bậc bất thối chuyển chẳng cần nương nhờ pháp sở thuyết. Đối với quả vị giác ngộ cao tột, quyết định hướng đến, đối với quả vị đại Bồ-đề bất thối chuyển, đại Bồ-tát cầu chóng đạt đến đại Bồ-đề, thì cần phải nương nhờ pháp sở thuyết; đối với quả vị giác ngộ cao tột, cầu mau đạt đến, thì nên quán khổ sanh tử của tất cả hữu tình, vận dụng tâm đại bi vô cùng thống thiết.

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Để riêng các loại hữu tình ở Trung thiên thế giới, nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... giáo hóa các loại hữu tình trong Tam thiên đại thiên thế giới này, đối với quả vị giác ngộ cao tột đều đắc bất thối chuyển; lại dùng vô lượng pháp môn Bát-nhã-ba-la-mật-đa, văn nghĩa xảo diệu, vì họ rộng nói, diễn đạt chỉ bày, giải thích rõ ràng, phân biệt nghĩa thú, khiến họ dễ hiểu; và nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... khuyên một trong số đó mau hướng đến quả vị giác ngộ cao tột, thuyết pháp Tam-thừa, cứu độ tất cả; lại dùng vô lượng pháp môn Bát-nhã-ba-la-mật-đa, văn nghĩa xảo diệu, vì họ rộng nói, diễn đạt chỉ bày, giải thích rõ ràng, phân biệt nghĩa thú, khiến họ dễ hiểu, thì này Kiều Thi Ca! Hàng thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v… nói sau đạt được công đức hơn trước rất nhiều. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì đại Bồ-tát trụ bậc bất thối chuyển chẳng cần nương nhờ pháp sở thuyết. Đối với quả vị giác ngộ cao tột, quyết định hướng đến, đối với quả vị đại Bồ-đề bất thối chuyển, đại Bồ-tát cầu chóng đạt đến đại Bồ-đề, thì cần phải nương nhờ pháp sở thuyết; đối với quả vị giác ngộ cao tột, cầu mau đạt đến, thì nên quán khổ sanh tử của tất cả hữu tình, vận dụng tâm đại bi vô cùng thống thiết.

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Để riêng các loại hữu tình ở Tam thiên đại thiên thế giới này, nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... giáo hóa các loại hữu tình ở vô số thế giới trong mười phương, đối với quả vị giác ngộ cao tột đều đắc bất thối chuyển; lại dùng vô lượng pháp môn Bát-nhã-ba-la-mật-đa, văn nghĩa xảo diệu, vì họ rộng nói, diễn đạt chỉ bày, giải thích rõ ràng, phân biệt nghĩa thú, khiến họ dễ hiểu; và nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... khuyên một trong số đó mau hướng đến quả vị giác ngộ cao tột, thuyết pháp Tam-thừa, cứu độ tất cả; lại dùng vô lượng pháp môn Bát-nhã-ba-la-mật-đa, văn nghĩa xảo diệu, vì họ rộng nói, diễn đạt chỉ bày, giải thích rõ ràng, phân biệt nghĩa thú, khiến họ dễ hiểu, thì này Kiều Thi Ca! Hàng thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v… nói sau đạt được công đức hơn trước rất nhiều. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì đại Bồ-tát trụ bậc bất thối chuyển chẳng cần nương nhờ pháp sở thuyết. Đối với quả vị giác ngộ cao tột, quyết định hướng đến, đối với quả vị đại Bồ-đề bất thối chuyển, đại Bồ-tát cầu chóng đạt đến đại Bồ-đề, thì cần phải nương nhờ pháp sở thuyết; đối với quả vị giác ngộ cao tột, cầu mau đạt đến, thì nên quán khổ sanh tử của tất cả hữu tình, vận dụng tâm đại bi vô cùng thống thiết.

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Để riêng các loại hữu tình ở vô số thế giới trong mười phương, nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... giáo hóa các loại hữu tình ở tất cả thế giới trong mười phương, đối với quả vị giác ngộ cao tột đều đắc bất thối chuyển; lại dùng vô lượng pháp môn Bát-nhã-ba-la-mật-đa, văn nghĩa xảo diệu, vì họ rộng nói, diễn đạt chỉ bày, giải thích rõ ràng, phân biệt nghĩa thú, khiến họ dễ hiểu; và nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... khuyên một trong số đó mau hướng đến quả vị giác ngộ cao tột, thuyết pháp Tam-thừa, cứu độ tất cả; lại dùng vô lượng pháp môn Bát-nhã-ba-la-mật-đa, văn nghĩa xảo diệu, vì họ rộng nói, diễn đạt chỉ bày, giải thích rõ ràng, phân biệt nghĩa thú, khiến họ dễ hiểu, thì này Kiều Thi Ca! Hàng thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v… nói sau đạt được công đức hơn trước rất nhiều. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì đại Bồ-tát trụ bậc bất thối chuyển chẳng cần nương nhờ pháp sở thuyết. Đối với quả vị giác ngộ cao tột, quyết định hướng đến, đối với quả vị đại Bồ-đề bất thối chuyển, đại Bồ-tát cầu chóng đạt đến đại Bồ-đề, thì cần phải nương nhờ pháp sở thuyết; đối với quả vị giác ngộ cao tột, cầu mau đạt đến, thì nên quán khổ sanh tử của tất cả hữu tình, vận dụng tâm đại bi vô cùng thống thiết.

Lúc bấy giờ, trời Đế Thích bạch: Bạch Thế Tôn! Như như đại Bồ-tát gần đạt đến quả vị giác ngộ cao tột như thế, thì nên dùng bố thí Ba-la-mật-đa, mau chóng dạy bảo, trao truyền cho đại Bồ-tát ấy. Như như đại Bồ-tát gần đạt đến quả vị giác ngộ cao tột như thế, thì nên dùng tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa mau chóng dạy bảo, trao truyền cho đại Bồ-tát ấy.

Bạch Thế Tôn! Như như đại Bồ-tát gần đạt đến quả vị giác ngộ cao tột như thế, thì nên dùng pháp không nội, mau chóng dạy bảo, trao truyền cho đại Bồ-tát ấy. Như như đại Bồ-tát gần đạt đến quả vị giác ngộ cao tột như thế, thì nên dùng pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh mau chóng dạy bảo, trao truyền cho đại Bồ-tát ấy.

Bạch Thế Tôn! Như như đại Bồ-tát gần đạt đến quả vị giác ngộ cao tột như thế, thì nên dùng chơn như, mau chóng dạy bảo, trao truyền cho đại Bồ-tát ấy. Như như đại Bồ-tát gần đạt đến quả vị giác ngộ cao tột như thế, thì nên dùng pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì mau chóng dạy bảo, trao truyền cho đại Bồ-tát ấy.

Bạch Thế Tôn! Như như đại Bồ-tát gần đạt đến quả vị giác ngộ cao tột như thế, thì nên dùng Thánh đế khổ, mau chóng dạy bảo, trao truyền cho đại Bồ-tát ấy. Như như đại Bồ-tát gần đạt đến quả vị giác ngộ cao tột như thế, thì nên Thánh đế tập, diệt, đạo mau chóng dạy bảo, trao truyền cho đại Bồ-tát ấy.

Bạch Thế Tôn! Như như đại Bồ-tát gần đạt đến quả vị giác ngộ cao tột như thế, thì nên dùng bốn tịnh lự, mau chóng dạy bảo, trao truyền cho đại Bồ-tát ấy. Như như đại Bồ-tát gần đạt đến quả vị giác ngộ cao tột như thế, thì nên dùng bốn vô lượng, bốn định vô sắc mau chóng dạy bảo, trao truyền cho đại Bồ-tát ấy.

Bạch Thế Tôn! Như như đại Bồ-tát gần đạt đến quả vị giác ngộ cao tột như thế, thì nên dùng tám giải thoát, mau chóng dạy bảo, trao truyền cho đại Bồ-tát ấy. Như như đại Bồ-tát gần đạt đến quả vị giác ngộ cao tột như thế, thì nên dùng tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ mau chóng dạy bảo, trao truyền cho đại Bồ-tát ấy.

Bạch Thế Tôn! Như như đại Bồ-tát gần đạt đến quả vị giác ngộ cao tột như thế, thì nên dùng bốn niệm trụ, mau chóng dạy bảo, trao truyền cho đại Bồ-tát ấy. Như như đại Bồ-tát gần đạt đến quả vị giác ngộ cao tột như thế, thì nên dùng bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo mau chóng dạy bảo, trao truyền cho đại Bồ-tát ấy.

Bạch Thế Tôn! Như như đại Bồ-tát gần đạt đến quả vị giác ngộ cao tột như thế, thì nên dùng pháp môn giải thoát không, mau chóng dạy bảo, trao truyền cho đại Bồ-tát ấy. Như như đại Bồ-tát gần đạt đến quả vị giác ngộ cao tột như thế, thì nên dùng pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện mau chóng dạy bảo, trao truyền cho đại Bồ-tát ấy.

Bạch Thế Tôn! Như như đại Bồ-tát gần đạt đến quả vị giác ngộ cao tột như thế, thì nên dùng năm loại mắt, mau chóng dạy bảo, trao truyền cho đại Bồ-tát ấy. Như như đại Bồ-tát gần đạt đến quả vị giác ngộ cao tột như thế, thì nên dùng sáu phép thần thông mau chóng dạy bảo, trao truyền cho đại Bồ-tát ấy.

Bạch Thế Tôn! Như như đại Bồ-tát gần đạt đến quả vị giác ngộ cao tột như thế, thì nên dùng mười lực Phật, mau chóng dạy bảo, trao truyền cho đại Bồ-tát ấy. Như như đại Bồ-tát gần đạt đến quả vị giác ngộ cao tột như thế, thì nên dùng bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng mau chóng dạy bảo, trao truyền cho đại Bồ-tát ấy.

Bạch Thế Tôn! Như như đại Bồ-tát gần đạt đến quả vị giác ngộ cao tột như thế, thì nên dùng pháp không quên mất, mau chóng dạy bảo, trao truyền cho đại Bồ-tát ấy. Như như đại Bồ-tát gần đạt đến quả vị giác ngộ cao tột như thế, thì nên dùng tánh luôn luôn xả mau chóng dạy bảo, trao truyền cho đại Bồ-tát ấy.

Bạch Thế Tôn! Như như đại Bồ-tát gần đạt đến quả vị giác ngộ cao tột như thế, thì nên dùng trí nhất thiết, mau chóng dạy bảo, trao truyền cho đại Bồ-tát ấy. Như như đại Bồ-tát gần đạt đến quả vị giác ngộ cao tột như thế, thì nên dùng trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng mau chóng dạy bảo, trao truyền cho đại Bồ-tát ấy.

Bạch Thế Tôn! Như như đại Bồ-tát gần đạt đến quả vị giác ngộ cao tột như thế, thì nên dùng tất cả pháp môn Đà-la-ni, mau chóng dạy bảo, trao truyền cho đại Bồ-tát ấy. Như như đại Bồ-tát gần đạt đến quả vị giác ngộ cao tột như thế, thì nên dùng tất cả pháp môn Tam-ma-địa mau chóng dạy bảo, trao truyền cho đại Bồ-tát ấy.

Bạch Thế Tôn! Như như đại Bồ-tát gần đạt đến quả vị giác ngộ cao tột như thế, thì nên dùng y phục, đồ ăn uống, ngọa cụ, thuốc men tốt nhất, tùy theo nhu cầu, các thứ đồ dùng cúng dường nhiếp thọ đại Bồ-tát ấy.

Bạch Thế Tôn! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... năng dùng pháp thí, tài thí như thế, cúng dường nhiếp thọ đại Bồ-tát ấy, thì thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... ấy đạt được công đức hơn trước rất nhiều. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Vì đại Bồ-tát ấy nhờ đã nhiếp thọ sự dạy bảo, trao truyền về bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa này mà mau chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Bạch Thế Tôn! Vì đại Bồ-tát nhờ đã nhiếp thọ sự dạy bảo trao truyền về pháp không nội, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh này, mà mau chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Bạch Thế Tôn! Vì đại Bồ-tát nhờ đã nhiếp thọ sự dạy bảo trao truyền về chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì này, mà mau chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Bạch Thế Tôn! Vì đại Bồ-tát nhờ đã nhiếp thọ sự dạy bảo trao truyền về Thánh đế khổ, Thánh đế tập, Thánh đế diệt, Thánh đế đạo này, mà mau chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Bạch Thế Tôn! Vì đại Bồ-tát nhờ đã nhiếp thọ sự dạy bảo trao truyền về bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc này, mà mau chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Bạch Thế Tôn! Vì đại Bồ-tát ấy nhờ đã nhiếp thọ sự dạy bảo trao truyền về tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ này, mà mau chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Bạch Thế Tôn! Vì đại Bồ-tát ấy nhờ đã nhiếp thọ sự dạy bảo trao truyền về bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo này, mà mau chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Bạch Thế Tôn! Vì đại Bồ-tát ấy nhờ đã nhiếp thọ sự dạy bảo trao truyền về pháp môn giải thoát không, pháp môn giải thoát vô tướng, pháp môn giải thoát vô nguyện này, mà mau chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Bạch Thế Tôn! Vì đại Bồ-tát ấy nhờ đã nhiếp thọ sự dạy bảo trao truyền về năm loại mắt, sáu phép thần thông này, mà mau chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Bạch Thế Tôn! Vì đại Bồ-tát ấy nhờ đã nhiếp thọ sự dạy bảo trao truyền về mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng này, mà mau chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Bạch Thế Tôn! Vì đại Bồ-tát ấy nhờ đã nhiếp thọ sự dạy bảo trao truyền về pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả này, mà mau chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Bạch Thế Tôn! Vì đại Bồ-tát ấy nhờ đã nhiếp thọ sự dạy bảo trao truyền về trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng này, mà mau chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Bạch Thế Tôn! Vì đại Bồ-tát ấy nhờ đã nhiếp thọ sự dạy bảo trao truyền về tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa này, mà mau chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Bạch Thế Tôn! Vì đại Bồ-tát ấy lại nhờ đã nhiếp thọ y phục, đồ ăn uống, ngọa cụ, thuốc men, các đồ dùng tùy theo nhu cầu này, mà mau chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Lúc bấy giờ, cụ thọ, Thiện Hiện bảo trời Đế Thích: Hay thay! Hay thay! Này Kiều Thi Ca! Chỉ ngươi mới có khả năng khuyên bảo, khích lệ đại Bồ-tát ấy; lại có khả năng nhiếp thọ đại Bồ-tát ấy, cũng có khả năng hỗ trợ đại Bồ-tát ấy. Ngươi nay đã là Thánh đệ tử của Phật, đã làm việc nên làm. Tất cả các Thánh đệ tử của Như Lai vì muốn lợi lạc các hữu tình, nên phương tiện khuyên bảo, khích lệ đại Bồ-tát ấy, khiến mau hướng đến quả vị giác ngộ cao tột; dùng pháp thí, tài thí nhiếp thọ, hỗ trợ đại Bồ-tát ấy, khiến mau chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì tất cả Như Lai, Thanh-văn, Độc-giác, và các thắng sự trong thế gian đều do đại Bồ-tát ấy mà được sanh ra. Vì sao? Vì nếu không có đại Bồ-tát phát tâm cầu quả vị giác ngộ cao tột, thì không có khả năng tu học bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa; cũng không có khả năng an trụ pháp không nội, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; cũng không có khả năng an trụ chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; cũng không có khả năng an trụ Thánh đế khổ, Thánh đế tập, Thánh đế diệt, Thánh đế đạo; cũng không có khả năng tu học bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc; cũng không có khả năng tu học tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; cũng không có khả năng tu học bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; cũng không có khả năng tu học pháp môn giải thoát không, pháp môn giải thoát vô tướng, pháp môn giải thoát vô nguyện; cũng không có khả năng tu học năm loại mắt, sáu phép thần thông; cũng không có khả năng tu học mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; cũng không có khả năng tu học pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả; cũng không có khả năng tu học trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; cũng không có khả năng tu học tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa. Nếu không có đại Bồ-tát tu học, an trụ các pháp như thế, thì không có khả năng chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Nếu không có đại Bồ-tát chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, thì không có khả năng an lập Bồ-tát, Thanh-văn, Độc-giác, và các thắng sự trong thế gian.

Này Kiều Thi Ca! Vì do có đại Bồ-tát phát tâm cầu quả vị giác ngộ cao tột, nên mới có khả năng tu học bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa; cũng lại có khả năng an trụ pháp không nội, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; cũng lại có khả năng an trụ chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; cũng lại có khả năng an trụ Thánh đế khổ, Thánh đế tập, Thánh đế diệt, Thánh đế đạo; cũng lại có khả năng tu học bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc; cũng lại có khả năng tu học tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; cũng lại có khả năng tu học bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; cũng lại có khả năng tu học pháp môn giải thoát không, pháp môn giải thoát vô tướng, pháp môn giải thoát vô nguyện; cũng lại có khả năng tu học năm loại mắt, sáu phép thần thông; cũng lại có khả năng tu học mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; cũng lại có khả năng tu học pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả; cũng lại có khả năng tu học trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; cũng lại có khả năng tu học tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa. Vì do có đại Bồ-tát tu học, an trụ các pháp như thế, nên mới có khả năng chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Do có đại Bồ-tát chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, nên dứt trừ tất cả địa ngục, bàng sanh, quỉ giới trong thế gian; cũng có khả năng làm tổn giảm bè đảng A-tố-lạc, làm tăng thêm thiên chúng.

Này Kiều Thi Ca! Vì do có đại Bồ-tát chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, nên mới có dòng dõi lớn Sát-đế-lợi, dòng dõi lớn Bà-la-môn, dòng dõi lớn Trưởng giả, dòng dõi lớn Cư sĩ xuất hiện ở thế gian; do đó lại có chúng trời trời Tứ-đại-vương, trời Ba-mươi-ba, trời Dạ-mạ, trời Đổ-sử-đa, trời Lạc-biến-hóa, trời Tha-hóa-tự-tại xuất hiện ở thế gian; do đó lại có trời Phạm-chúng, trời Phạm-phụ, trời Phạm-hội, trời Đại-phạm, trời Quang, trời Thiểu-Quang, trời Vô-lượng-quang, trời Cực-quang-tịnh, trời Tịnh, trời Thiểu-tịnh, trời Vô-lượng-tịnh, trời Biến-tịnh, trời Quảng, trời Thiểu-quảng, trời Vô-lượng-quảng, trời Quảng-quả xuất hiện ở thế gian; do đó lại có trời trời Vô-phiền, trời Vô-nhiệt, trời Thiện-hiện, trời Thiện-kiến, trời Sắc-cứu-cánh xuất hiện ở thế gian; do đó lại có trời Không-vô-biên-xứ, trời Thức-vô-biên-xứ, trời Vô-sở-hữu-xứ, trời Phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ xuất hiện ở thế gian; do đó lại có bố thí Ba-la-mật-đa, tịnh giới Ba-la-mật-đa, an nhẫn Ba-la-mật-đa, tinh tấn Ba-la-mật-đa, tịnh lự Ba-la-mật-đa, Bát-nhã Ba-la-mật-đa xuất hiện ở thế gian; do đó lại có pháp không nội, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh xuất hiện ở thế gian; do đó lại có chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì xuất hiện ở thế gian; do đó lại có Thánh đế khổ, Thánh đế tập, Thánh đế diệt, Thánh đế đạo xuất hiện ở thế gian; do đó lại có bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc xuất hiện ở thế gian; do đó lại có tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ xuất hiện ở thế gian; do đó lại có bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo xuất hiện ở thế gian; do đó lại có pháp môn giải thoát không, pháp môn giải thoát vô tướng, pháp môn giải thoát vô nguyện xuất hiện ở thế gian; do đó lại có năm loại mắt, sáu phép thần thông xuất hiện ở thế gian; do đó lại có mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng xuất hiện ở thế gian; do đó lại có pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả xuất hiện ở thế gian; do đó lại có trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng xuất hiện ở thế gian; do đó lại có tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa xuất hiện ở thế gian; do đó lại có tất cả Thanh-văn thừa, tất cả Độc-giác thừa, tất cả Đại-thừa xuất hiện ở thế gian.

Tập 04
Quyển 168
Phẩm Tùy Hỷ Hồi Hướng 1

 

Lúc bấy giờ, đại Bồ-tát Di Lặc bạch Thượng tọa Thiện Hiện: Thưa Đại đức! Nếu đại Bồ-tát đối với tất cả hữu tình, đem công đức có được, tùy hỷ cùng làm các sự nghiệp phước đức và nếu đại Bồ-tát dùng sự nghiệp phước đức này, cùng với tất cả hữu tình đồng hồi hướng quả vị giác ngộ cao tột, và vì dùng vô sở đắc làm phương tiện, nên nếu sự nghiệp phước đức tùy hỷ hồi hướng của các hữu tình khác như sự nghiệp phước đức của phàm phu, Thanh-văn, Độc-giác đó là ba sự nghiệp phước đức của thí tánh, giới tánh, tu tánh, hoặc sự nghiệp phước đức của bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, bốn Thánh đế, tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện, bốn sự hiểu biết thông suốt, sáu phép thần thông v.v… thì công đức có được do tùy hỷ hồi hướng của đại Bồ-tát ấy, so với sự nghiệp phước đức của phàm phu, Thanh-văn, Độc-giác kia là rất tối thắng, là tôn quí, là cao siêu, là vi diệu, là cao cả, là tối cao, không gì bằng, không gì hơn. Vì sao? Thưa Đại đức! Vì các phàm phu tu sự nghiệp phước đức chỉ vì để cho mình được tự tại an lạc; Thanh-văn, Độc-giác tu sự nghiệp phước đức là để tự điều phục, là để được tịch tịnh, là để đắc Niết-bàn, còn công đức có được do tùy hỷ hồi hướng của đại Bồ-tát, thì khắp vì sự điều phục, tịch tịnh, Bát-niết-bàn cho tất cả hữu tình.

Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch đại Bồ-tát Di Lặc: Thưa Đại sĩ! Tâm tùy hỷ hồi hướng của đại Bồ-tát duyên khắp vô số, vô lượng, vô biên thế giới trong mười phương. Trong mỗi thế giới có vô số, vô lượng, vô biên các đức Phật đã nhập Niết-bàn, từ sơ phát tâm cho đến chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, đều lần lượt như thế, sau khi nhập Vô-dư-y Niết-bàn, cho đến khi giáo pháp diệt, ở khoảng giữa, có thiện căn tương ưng với sáu phép Ba-la-mật và có thiện căn khác tương ưng với vô số, vô lượng, vô biên Phật pháp. Nếu đệ tử phàm phu kia có ba sự nghiệp phước đức là thí tánh, giới tánh và tu tánh; nếu đệ tử Thanh-văn kia có thiện căn vô lậu là hữu học, vô học; nếu chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác có giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát tri kiến uẩn thì làm lợi lạc tất cả hữu tình bằng đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả và vô số, vô lượng, vô biên Phật pháp. Các pháp mà chư Phật đã nói, nếu nương vào pháp ấy, mà siêng năng tu học thì đắc quả Dự-lưu, đắc quả Nhất-lai, đắc quả Bất-hoàn, đắc quả A-la-hán, đắc quả Đôc-giác, đắc nhập Chánh tánh ly sanh của Bồ-tát. Tất cả thiện căn đã có như thế và thiện căn của hữu tình khác với thiện căn đã gieo trồng của các chứng đệ tử Thanh-văn, Bồ-tát của các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, hoặc còn trụ thế, hoặc sau khi nhập Niết-bàn là các thiện căn nhóm tụ tất cả sự tùy hỷ hiện tại và sự tùy hỷ quá khứ. Lại dùng sự tùy hỷ như thế đều làm các sự nghiệp phước đức cùng với tất cả hữu tình, đồng hồi hướng quả vị giác ngộ cao tột. Con xin đem thiện căn này cùng với tất cả hữu tình đồng dẫn phát quả vị giác ngộ cao tột, thì sự tùy hỷ, hồi hướng đã phát khởi như thế so với những nghiệp phước đức đã phát khởi khác là tối thắng, là tôn quí, là cao siêu, là vi diệu, là cao cả, là tối cao, không gì bằng, không gì hơn. Thưa Đại sĩ Di Lặc! Theo ý Ngài thì sao? Đại Bồ-tát ấy, duyên các việc như thế, khởi tâm tùy hỷ hồi hướng, có phải là có sự sở duyên như thế, như cái tướng sở thủ của đại Bồ-tát kia chăng?

 

Quyển thứ 168

Hết

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/01/2018(Xem: 11519)
Viên dung hạnh nguyện Bồ Đề, Thong dong giữa cõi, lối về phương duyên. Thác duyên giữa chốn lam thiền, Kim Liên hầu Phật, tịch chiên kinh huyền.
06/01/2018(Xem: 9184)
Chúng tôi có duyên được gặp ông Lý Đại Nguyên từ những năm cuối thập niên 1950, khi đến tham dự những buổi nói chuyện về những vấn đề văn hóa, chính trị và văn nghệ vào những ngày chủ nhật tại Đàm Trường Viễn Kiến (nhà ông Nguyễn Đức Quỳnh trong hẻm cạnh chùa Giác Minh của thượng tọa Thích Tâm Châu, đường Phan Thanh Giản). Khi nhập vào Đàm Trường này, chúng tôi còn là học sinh đệ tứ, đệ tam trường Chu Văn An, nhưng được nghe nhiều nhà văn, nhà báo thuyết trình đủ thứ đề tài , trong đó tôi còn nhớ là thường gặp luật sư Nghiêm Xuân Hồng, nhà văn Mặc Đỗ, nhà báo Hồ Nam, nhạc sĩ Phạm Duy, mấy nhà văn nhóm Sáng Tạo, và mấy người trẻ lớp tuổi tôi như Phan Lạc Giang Đông, Phạm Thiên Thư, Lê Triều Quang... Nhà văn hóa Nguyễn Đức Quỳnh, chủ nhà và người chủ trương Đàm Trường Viễn Kiến, với bộ bà ba nâu, trán cao, dáng thanh thoát thường góp nhiều ý kiến trong những buổi nói chuyện, và người thứ nhì là Lý Đại Nguyên, dáng thư sinh, mặc bộ bà ba trắng thường tổng kết những đề tài thảo luận. Tro
29/12/2017(Xem: 23063)
Giáo Sư Trần Quang Thuận, Pháp danh: Tâm Đức Tự: Trí Không Sinh ngày 02 tháng 7 năm 1930 tại Huế. Đệ tử của Cố Đại Lão Hòa Thượng Thích Đôn Hậu. Du học và tốt nghiệp Tiến Sĩ tại Anh. Cựu Bộ Trưởng Bộ Xã Hội, chính phủ Việt Nam Cộng Hòa. Cựu Nghị sĩ Thượng Nghị Viện Việt Nam Cộng Hòa. Chủ Tịch Hội Đồng Điều Hành Hội Ái Hữu Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ. Tổng Thư Ký Hội Đồng Điều Hành Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ. Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Nghiên Cứu Kế Hoạch GHPGVNTNHN-HK. Giám đốc Trung Tâm Học Liệu Phật Giáo, California, Hoa Kỳ. Đã cộng tác với nhiều báo chí Phật Giáo Việt Nam tại hải ngoại.
19/12/2017(Xem: 6865)
Trong diễn văn của Chủ tịch nước Cộng Hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam Nguyễn Minh Triết tại buổi khai mạc Đại lễ Phật Đản Liên Hợp Quốc 2008 tại Trung tâm Hội nghị quốc gia Mỹ Đình Hà Nội đã khẳng định: “Việt Nam là đất nước đa tôn giáo mà đạo Phật là tôn giáo có mặt rất sớm từ gần 2000 năm trước. Ngay từ buổi đầu tiên, với tư tưởng Từ bi, hỷ xả, Phật giáo đã được nhân dân Việt Nam đón nhận, luôn đồng hành cùng dân tộc với phương châm nhập thế, gắn bó giữa Đạo và Đời phấn đấu vì hạnh phúc an vui cho con người. Trong các thời đại, thời nào lịch sử Việt Nam cũng ghi nhận những nhà Sư đại đức, đại trí đứng ra giúp đời, hộ quốc, an dân. Đặc biệt lịch sử Việt Nam mãi mãi ghi nhớ công lao của vị vua anh minh Trần Nhân Tông có công lớn lãnh đạo nhân dân bảo vệ Tổ quốc. Khi đất nước thái bình, Người nhường ngôi từ bỏ giàu sang, quyền quý, tìm đến nơi non cao Yên Tử để học Phật tu hành, sáng lập nên Thiền phái Trúc Lâm, một dòng Thiền riêng của Việt Nam tồn tại mãi tới ngày nay.”
17/12/2017(Xem: 69914)
Bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển, chiếm tới ba tập khổ lớn trong Đại Tạng Kinh Đại Chính Tân Tu, mỗi tập trên dưới 1.000 trang, mỗi trang độ 1.500 chữ, tổng cộng khoảng 4 triệu 500.000 chữ (Hán); thường được gọi là Đại Bát Nhã, mang số hiệu 220. Khoảng giữa năm 1973, theo quyết định của Hội đồng Giáo phẩm Trung Ương Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, Hội đồng Phiên dịch Tam Tạng gồm 18 vị được thành lập với Hòa Thượng Trí Tịnh làm Trưởng ban, Hòa Thượng Minh Châu làm Phó trưởng ban và Hòa Thượng Quảng Độ làm Tổng thư ký. Trong kỳ họp tại Viện Đại Học Vạn Hạnh vào những ngày 20, 21, 22 tháng 10 năm 1973 nhằm thảo luận phương thức, nội dung và chương trình làm việc, Hòa Thượng Thích Trí Nghiệm được Hội đồng phân công phiên dịch bộ Đại Bát Nhã 600 quyển này. Thực ra, Ngài đã tự khởi dịch bộ kinh này từ năm 1972 và khi được phân công, Ngài đã dịch được gần 100 quyển. Đây là bộ kinh lớn nhất trong Đại Tạng, đã được Ngài dịch suốt 8 năm (1972-1980) mới xong và đã dịch theo bản biệt
15/12/2017(Xem: 86891)
Trải hơn 25 thế kỷ, Chánh Pháp của Phật vẫn được tuyên dương và lưu truyền bởi hàng đệ tử xuất gia lẫn tại gia, đem lại giải thoát và giác ngộ cho những ai học hỏi và thực hành đúng đắn. Chánh Pháp ấy là thuốc hay, nhưng bệnh mà không uống thì chẳng phải là lỗi của thuốc. Trong kinh Di Giáo, đức Phật cũng ân cần huấn thị lần chót bằng những lời cảm động như sau: “Thể hiện lòng đại bi, Như Lai đã nói Chánh Pháp ích lợi một cách cứu cánh. Các thầy chỉ còn nỗ lực mà thực hành… Hãy tự cố gắng một cách thường trực, tinh tiến mà tu tập, đừng để đời mình trôi qua một cách vô ích, và sau này sẽ phải lo sợ hối hận.” Báo Chánh Pháp có mặt để góp phần giới thiệu đạo Phật đến với mọi người. Ước mong giáo pháp của Phật sẽ được lưu chuyển qua những trang báo nhỏ này, mỗi người sẽ tùy theo căn tánh và nhân duyên mà tiếp nhận hương vị.
15/12/2017(Xem: 136695)
Văn Hóa Phật Giáo, số 242, ngày 01-02-2016 (Xuân Bính Thân) Văn Hóa Phật Giáo, số 244, ngày 01-03-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 245, ngày 15-03-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 246, ngày 01-04-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 247, ngày 15-04-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 248, ngày 01-05-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 249, ngày 15-05-2016 (Phật Đản PL 2560) Văn Hóa Phật Giáo, số 250, ngày 01-06-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 251, ngày 15-06-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 252, ngày 01-07-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 253, ngày 15-07-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 254, ngày 01-08-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 255, ngày 15-08-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 256, ngày 01-09-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 257, ngày 15-09-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 258, ngày 01-10-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 259, ngày 15-10-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 260, ngày 01-11-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 261, ngày 15-11-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 262, ngày 01-12-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 263, ngày 15-12-2016
15/12/2017(Xem: 10185)
Ban Trị sự GHPGVN thị xã Ninh Hòa, môn đồ pháp quyến vô cùng kính tiết báo tin: Hòa thượng Thích Ngộ Trí. Chứng minh BTS GHPGVN thị xã Ninh Hòa. Trụ trì chùa Trường Thọ. Do niên cao lạp trưởng, Hòa thượng đã thuận thế vô thường viên tịch vào lúc 14 giờ ngày 12/12/2017 (25/10 Đinh Dậu) tại chùa Trường Thọ, tổ dân phố 10, phường Ninh Hiệp, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa. Trụ thế: 75 năm, Hạ lạp: 47 năm.
27/11/2017(Xem: 23150)
Do niên cao lạp trưởng, Hoà thượng đã viên tịch vào lúc vào lúc 04h00 ngày 10 tháng 10 năm Đinh Dậu (nhằm ngày 27/11/2017) tại Quảng Hương Già Lam, 498/11 Lê Quang Định, Phường 1, Quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh, trụ thế 86 Xuân Thu, 62 Hạ Lạp. Lễ nhập Kim Quan được cử hành vào lúc 19h00, ngày 10 tháng 10 năm Đinh Dậu (nhằm ngày 27/11/2017). Kim Quan được tôn trí tại Quảng Hương Già Lam, Quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh.
26/11/2017(Xem: 6525)
Chấn hưng Phật giáo hay Công cuộc Chấn hưng Phật giáo Việt Nam là một phong trào vận động cho sự phục hưng Phật giáo nhằm tìm lại các giá trị truyền thống và phát triển hoằng bá Phật giáo tại Việt Nam, bắt đầu từ đầu thế kỉ 20. Công cuộc này đã làm thay đổi rất nhiều về nội dung và hình thức hoạt động của Phật giáo tại Việt Nam.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]