Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Quyển 58: Phẩm Tán Đại-Thừa 3

07/07/201511:30(Xem: 14220)
Quyển 58: Phẩm Tán Đại-Thừa 3

Tập 02
Quyển 58
Phẩm Tán Đại-Thừa 3
Bản dịch của HT Thích Trí Nghiêm
Diễn đọc: Cư Sĩ Chánh Trí


 

Lại nữa, Thiện Hiện! Vì ngã cho đến cái thấy không có sở hữu, nên cái không nội cũng không có sở hữu. Vì cái không nội không có sở hữu, nên cái không ngoại cũng không có sở hữu. Vì cái không ngoại không có sở hữu, nên cái không nội ngoại cũng không có sở hữu. Vì cái không nội ngoại không có sở hữu, nên cái không không cũng không có sở hữu. Vì cái không không không có sở hữu, nên cái không lớn cũng không có sở hữu. Vì cái không lớn không có sở hữu, nên cái không thắng nghĩa cũng không có sở hữu. Vì cái không thắng nghĩa không có sở hữu, nên cái không hữu vi cũng không có sở hữu. Vì cái không hữu vi không có sở hữu, nên cái không vô vi cũng không có sở hữu. Vì cái không vô vi không có sở hữu, nên cái không rốt ráo cũng không có sở hữu. Vì cái không rốt ráo không có sở hữu, nên cái không không biên giới cũng không có sở hữu. Vì cái không không biên giới không có sở hữu, nên cái không tản mạn cũng không có sở hữu. Vì cái không tản mạn không có sở hữu, nên cái không không đổi khác cũng không có sở hữu. Vì cái không không đổi khác không có sở hữu, nên cái không bổn tánh cũng không có sở hữu. Vì cái không bổn tánh không có sở hữu, nên cái không tự tướng cũng không có sở hữu. Vì cái không tự tướng không có sở hữu, nên cái không cộng tướng cũng không có sở hữu. Vì cái không cộng tướng không có sở hữu, nên cái không tất cả pháp cũng không có sở hữu. Vì cái không tất cả pháp không có sở hữu, nên cái không chẳng thể nắm bắt được cũng không có sở hữu. Vì cái không chẳng thể nắm bắt được không có sở hữu, nên cái không không tánh cũng không có sở hữu. Vì cái không không tánh không có sở hữu, nên cái không tự tánh cũng không có sở hữu. Vì cái không tự tánh không có sở hữu, nên cái không không tánh tự tánh cũng không có sở hữu. Vì cái không không tánh tự tánh không có sở hữu, nên hư không cũng không có sở hữu. Vì hư không không có sở hữu, nên Đại-thừa cũng không có sở hữu. Vì Đại-thừa không có sở hữu, nên vô số cũng không có sở hữu. Vì vô số không có sở hữu, nên vô lượng cũng không có sở hữu. Vì vô lượng không có sở hữu, nên vô biên cũng không có sở hữu. Vì vô biên không có sở hữu, nên tất cả pháp cũng không có sở hữu. Do ý nghĩa như thế, nên nói Đại-thừa có thể bao trùm hết vô số, vô lượng, vô biên hữu tình. Vì sao? Thiện Hiện! Vì ngã cho đến cái thấy, hoặc cái không nội cho đến cái không không tánh tự tánh, hoặc hư không, Đại-thừa, vô số, vô lượng, vô biên, tất cả pháp; tất cả như vậy đều không có sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Lại nữa, Thiện Hiện! Vì ngã cho đến cái thấy không có sở hữu, nên bố thí Ba-la-mật-đa cũng không có sở hữu. Vì bố thí Ba-la-mật-đa không có sở hữu, nên tịnh giới Ba-la-mật-đa cũng không có sở hữu. Vì tịnh giới Ba-la-mật-đa không có sở hữu, nên an nhẫn Ba-la-mật-đa cũng không có sở hữu. Vì an nhẫn Ba-la-mật-đa không có sở hữu, nên tinh tấn Ba-la-mật-đa cũng không có sở hữu. Vì tinh tấn Ba-la-mật-đa không có sở hữu, nên tịnh lự Ba-la-mật-đa cũng không có sở hữu. Vì tịnh lự Ba-la-mật-đa không có sở hữu, nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng không có sở hữu. Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa không có sở hữu, nên hư không cũng không có sở hữu. Vì hư không không có sở hữu, nên Đại-thừa cũng không có sở hữu. Vì Đại-thừa không có sở hữu, nên vô số cũng không có sở hữu. Vì vô số không có sở hữu, nên vô lượng cũng không có sở hữu. Vì vô lượng không có sở hữu, nên vô biên cũng không có sở hữu. Vì vô biên không có sở hữu, nên tất cả pháp cũng không có sở hữu. Do ý nghĩa như thế, nên nói Đại-thừa có thể bao trùm hết vô số, vô lượng, vô biên hữu tình. Vì sao? Thiện Hiện! Vì ngã cho đến cái thấy, hoặc bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, hoặc hư không, Đại-thừa, vô số, vô lượng, vô biên, tất cả pháp; tất cả như vậy đều không có sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Lại nữa, Thiện Hiện! Vì ngã cho đến cái thấy không có sở hữu, nên bốn tịnh lự cũng không có sở hữu. Vì bốn tịnh lự không có sở hữu, nên bốn vô lượng cũng không có sở hữu. Vì bốn vô lượng không có sở hữu, nên bốn định vô sắc cũng không có sở hữu. Vì bốn định vô sắc không có sở hữu, nên hư không cũng không có sở hữu. Vì hư không không có sở hữu, nên Đại-thừa cũng không có sở hữu. Vì Đại-thừa không có sở hữu, nên vô số cũng không có sở hữu. Vì vô số không có sở hữu, nên vô lượng cũng không có sở hữu. Vì vô lượng không có sở hữu, nên vô biên cũng không có sở hữu. Vì vô biên không có sở hữu, nên tất cả pháp cũng không có sở hữu. Do ý nghĩa như thế, nên nói Đại-thừa có thể bao trùm hết vô số, vô lượng, vô biên hữu tình. Vì sao? Thiện Hiện! Vì ngã cho đến cái thấy, hoặc bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, hoặc hư không, Đại-thừa, vô số, vô lượng, vô biên, tất cả pháp; tất cả như vậy đều không có sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Lại nữa, Thiện Hiện! Vì ngã cho đến cái thấy không có sở hữu, nên bốn niệm trụ cũng không có sở hữu. Vì bốn niệm trụ không có sở hữu, nên bốn chánh đoạn cũng không có sở hữu. Vì bốn chánh đoạn không có sở hữu, nên bốn thần túc cũng không có sở hữu. Vì bốn thần túc không có sở hữu, nên năm căn cũng không có sở hữu. Vì năm căn không có sở hữu, nên năm lực cũng không có sở hữu. Vì năm lực không có sở hữu, nên bảy chi đẳng giác cũng không có sở hữu. Vì bảy chi đẳng giác không có sở hữu, nên tám chi thánh đạo cũng không có sở hữu. Vì tám chi thánh đạo không có sở hữu, nên hư không cũng không có sở hữu. Vì hư không không có sở hữu, nên Đại-thừa cũng không có sở hữu. Vì Đại-thừa không có sở hữu, nên vô số cũng không có sở hữu. Vì vô số không có sở hữu, nên vô lượng cũng không có sở hữu. Vì vô lượng không có sở hữu, nên vô biên cũng không có sở hữu. Vì vô biên không có sở hữu, nên tất cả pháp cũng không có sở hữu. Do ý nghĩa như thế, nên nói Đại-thừa có thể bao trùm hết vô số, vô lượng, vô biên hữu tình. Vì sao? Thiện Hiện! Vì ngã cho đến cái thấy, hoặc bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo, hoặc hư không, Đại-thừa, vô số, vô lượng, vô biên, tất cả pháp; tất cả như vậy đều không có sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Lại nữa, Thiện Hiện! Vì ngã cho đến cái thấy không có sở hữu, nên pháp môn giải thoát không cũng không có sở hữu. Vì pháp môn giải thoát không không có sở hữu, nên pháp môn giải thoát vô tướng cũng không có sở hữu. Vì pháp môn giải thoát vô tướng không có sở hữu, nên pháp môn giải thoát vô nguyện cũng không có sở hữu. Vì pháp môn giải thoát vô nguyện không có sở hữu, nên hư không cũng không có sở hữu. Vì hư không không có sở hữu, nên Đại-thừa cũng không có sở hữu. Vì Đại-thừa không có sở hữu, nên vô số cũng không có sở hữu. Vì vô số không có sở hữu, nên vô lượng cũng không có sở hữu. Vì vô lượng không có sở hữu, nên vô biên cũng không có sở hữu. Vì vô biên không có sở hữu, nên tất cả pháp cũng không có sở hữu. Do ý nghĩa như thế, nên nói Đại-thừa có thể bao trùm hết vô số, vô lượng, vô biên hữu tình. Vì sao? Thiện Hiện! Vì ngã cho đến cái thấy, hoặc pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện, hoặc hư không, Đại-thừa, vô số, vô lượng, vô biên, tất cả pháp, tất cả đều không có sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Lại nữa, Thiện Hiện! Vì ngã cho đến cái thấy không có sở hữu, nên năm loại mắt cũng không có sở hữu. Vì năm loại mắt không có sở hữu, nên sáu phép thần thông cũng không có sở hữu. Vì sáu phép thần thông không có sở hữu, nên hư không cũng không có sở hữu. Vì hư không không có sở hữu, nên Đại-thừa cũng không có sở hữu. Vì Đại-thừa không có sở hữu, nên vô số cũng không có sở hữu. Vì vô số không có sở hữu, nên vô lượng cũng không có sở hữu. Vì vô lượng không có sở hữu, nên vô biên cũng không có sở hữu. Vì vô biên không có sở hữu, nên tất cả pháp cũng không có sở hữu. Do ý nghĩa như thế, nên nói Đại-thừa có thể bao trùm hết vô số, vô lượng, vô biên hữu tình. Vì sao? Thiện Hiện! Vì ngã cho đến cái thấy, hoặc năm loại mắt, hoặc sáu phép thần thông, hoặc hư không, Đại-thừa, vô số, vô lượng, vô biên, tất cả pháp, tất cả đều không có sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Lại nữa, Thiện Hiện! Vì ngã cho đến cái thấy không có sở hữu, nên mười lực của Phật cũng không có sở hữu. Vì mười lực của Phật không có sở hữu, nên bốn điều không sợ cũng không có sở hữu. Vì bốn điều không sợ không có sở hữu, nên bốn sự hiểu biết thông suốt cũng không có sở hữu. Vì bốn sự hiểu biết thông suốt không có sở hữu, nên đại từ cũng không có sở hữu. Vì đại từ không có sở hữu, nên đại bi cũng không có sở hữu. Vì đại bi không có sở hữu, nên đại hỷ cũng không có sở hữu. Vì đại hỷ không có sở hữu, nên đại xả cũng không có sở hữu. Vì đại xả không có sở hữu, nên mười tám pháp Phật bất cộng cũng không có sở hữu. Vì mười tám pháp Phật bất cộng không có sở hữu, nên trí nhất thiết cũng không có sở hữu. Vì trí nhất thiết không có sở hữu, nên trí đạo tướng cũng không có sở hữu. Vì trí đạo tướng không có sở hữu, nên trí nhất thiết tướng cũng không có sở hữu. Vì trí nhất thiết tướng không có sở hữu, nên hư không cũng không có sở hữu. Vì hư không không có sở hữu, nên Đại-thừa cũng không có sở hữu. Vì Đại-thừa không có sở hữu, nên vô số cũng không có sở hữu. Vì vô số không có sở hữu, nên vô lượng cũng không có sở hữu. Vì vô lượng không có sở hữu, nên vô biên cũng không có sở hữu. Vì vô biên không có sở hữu, nên tất cả pháp cũng không có sở hữu. Do ý nghĩa như thế, nên nói Đại-thừa có thể bao trùm hết vô số, vô lượng, vô biên hữu tình. Vì sao? Thiện Hiện! Vì ngã cho đến cái thấy, hoặc mười lực của Phật cho đến trí nhất thiết tướng, hoặc hư không, Đại-thừa, vô số, vô lượng, vô biên, tất cả pháp, tất cả đều không có sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Lại nữa, Thiện Hiện! Vì ngã cho đến cái thấy không có sở hữu, nên bậc Cực hỷ cũng không có sở hữu. Vì bậc Cực hỷ không có sở hữu, nên bậc Ly cấu cũng không có sở hữu. Vì bậc Ly cấu không có sở hữu, nên bậc Phát quang cũng không có sở hữu. Vì bậc Phát quang không có sở hữu, nên bậc Diệm tuệ cũng không có sở hữu. Vì bậc Diệm tuệ không có sở hữu, nên bậc Cực nan thắng cũng không có sở hữu. Vì bậc Cực nan thắng không có sở hữu, nên bậc Hiện tiền cũng không có sở hữu. Vì bậc Hiện tiền không có sở hữu, nên bậc Viễn hành cũng không có sở hữu. Vì bậc Viễn hành không có sở hữu, nên bậc Bất động cũng không có sở hữu. Vì bậc Bất động không có sở hữu, nên bậc Thiện tuệ cũng không có sở hữu. Vì bậc Thiện tuệ địa không có sở hữu, nên bậc Pháp vân cũng không có sở hữu. Vì bậc Pháp vân không có sở hữu, nên hư không cũng không có sở hữu. Vì hư không không có sở hữu, nên Đại-thừa cũng không có sở hữu. Vì Đại-thừa không có sở hữu, nên vô số cũng không có sở hữu. Vì vô số không có sở hữu, nên vô lượng cũng không có sở hữu. Vì vô lượng không có sở hữu, nên vô biên cũng không có sở hữu. Vì vô biên không có sở hữu, nên tất cả pháp cũng không có sở hữu. Do ý nghĩa như vậy, nên nói Đại-thừa có thể bao trùm hết vô số, vô lượng, vô biên hữu tình. Vì sao? Thiện Hiện! Vì ngã cho đến cái thấy, hoặc bậc Cực hỷ cho đến bậc Pháp vân, hoặc hư không, Đại-thừa, vô số, vô lượng, vô biên, tất cả pháp, tất cả đều không có sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Lại nữa, Thiện Hiện! Vì ngã cho đến cái thấy không có sở hữu, nên bậc Tịnh quán cũng không có sở hữu. Vì bậc Tịnh quán không có sở hữu, nên bậc Chủng tánh cũng không có sở hữu. Vì bậc Chủng tánh không có sở hữu, nên bậc Đệ bát cũng không có sở hữu. Vì bậc Đệ bát không có sở hữu, nên bậc Cụ kiến cũng không có sở hữu. Vì bậc Cụ kiến không có sở hữu, nên bậc Bạc cũng không có sở hữu. Vì bậc Bạc không có sở hữu, nên bậc Ly dục cũng không có sở hữu. Vì bậc Ly dục không có sở hữu, nên bậc Dĩ biện cũng không có sở hữu. Vì bậc Dĩ biện không có sở hữu, nên bậc Độc-giác cũng không có sở hữu. Vì bậc Độc-giác không có sở hữu, nên bậc Bồ-tát cũng không có sở hữu. Vì bậc Bồ-tát không có sở hữu, nên bậc Như lai cũng không có sở hữu. Vì bậc Như lai không có sở hữu, nên hư không cũng không có sở hữu. Vì hư không không có sở hữu, nên Đại-thừa cũng không có sở hữu. Vì Đại-thừa không có sở hữu, nên vô số cũng không có sở hữu. Vì vô số không có sở hữu, nên vô lượng cũng không có sở hữu. Vì vô lượng không có sở hữu, nên vô biên cũng không có sở hữu. Vì vô biên không có sở hữu, nên tất cả pháp cũng không có sở hữu. Do ý nghĩa như vậy, nên nói Đại-thừa có thể bao trùm hết vô số, vô lượng, vô biên hữu tình. Vì sao? Thiện Hiện! Vì ngã cho đến cái thấy, hoặc bậc Tịnh quán cho đến bậc Như lai, hoặc hư không, Đại-thừa, vô số, vô lượng, vô biên, tất cả pháp, tất cả đều không có sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Lại nữa, Thiện Hiện! Vì ngã cho đến cái thấy không có sở hữu, nên Dự-lưu hướng cũng không có sở hữu. Vì Dự-lưu hướng không có sở hữu, nên Dự-lưu quả cũng không có sở hữu. Vì Dự-lưu quả không có sở hữu, nên Nhất-lai hướng cũng không có sở hữu. Vì Nhất-lai hướng không có sở hữu, nên Nhất-lai quả cũng không có sở hữu. Vì Nhất-lai quả không có sở hữu, nên Bất-hoàn hướng cũng không có sở hữu. Vì Bất-hoàn hướng không có sở hữu, nên Bất-hoàn quả cũng không có sở hữu. Vì Bất-hoàn quả không có sở hữu, nên A-la-hán hướng cũng không có sở hữu. Vì A-la-hán hướng không có sở hữu, nên A-la-hán quả cũng không có sở hữu. Vì A-la-hán quả không có sở hữu, nên Độc-giác hướng cũng không có sở hữu. Vì Độc-giác hướng không có sở hữu, nên Độc-giác quả cũng không có sở hữu. Vì Độc-giác quả không có sở hữu, nên pháp đại Bồ-tát cũng không có sở hữu. Vì pháp đại Bồ-tát không có sở hữu, nên pháp Phật-đà Chánh Đẳng Chánh Giác cũng không có sở hữu. Vì pháp Phật-đà Chánh Đẳng Chánh Giác không có sở hữu, nên hư không cũng không có sở hữu. Vì hư không không có sở hữu, nên Đại-thừa cũng không có sở hữu. Vì Đại-thừa không có sở hữu, nên vô số cũng không có sở hữu. Vì vô số không có sở hữu, nên vô lượng cũng không có sở hữu. Vì vô lượng không có sở hữu, nên vô biên cũng không có sở hữu. Vì vô biên không có sở hữu, nên tất cả pháp cũng không có sở hữu. Do ý nghĩa như vậy, nên nói Đại-thừa có thể bao trùm hết vô số, vô lượng, vô biên hữu tình. Vì sao? Thiện Hiện! Vì ngã cho đến cái thấy, hoặc Dự-lưu hướng cho đến pháp Phật-đà Chánh Đẳng Chánh Giác, hoặc hư không, Đại-thừa, vô số, vô lượng, vô biên, tất cả pháp, tất cả đều không có sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Lại nữa, Thiện Hiện! Vì ngã cho đến cái thấy không có sở hữu, nên Bổ-đặc-già-la của Dự-lưu hướng cũng không có sở hữu. Vì Bổ-đặc-già-la của Dự-lưu hướng không có sở hữu, nên Bổ-đặc-già-la của Dự-lưu quả cũng không có sở hữu. Vì Bổ-đặc-già-la của Dự-lưu quả không có sở hữu, nên Bổ-đặc-già-la của Nhất-lai hướng cũng không có sở hữu. Vì Bổ-đặc-già-la của Nhất-lai hướng không có sở hữu, nên Bổ-đặc-già-la của Nhất-lai quả cũng không có sở hữu. Vì Bổ-đặc-già-la của Nhất-lai quả không có sở hữu, nên Bổ-đặc-già-la của Bất-hoàn hướng cũng không có sở hữu. Vì Bổ-đặc-già-la của Bất-hoàn hướng không có sở hữu, nên Bổ-đặc-già-la của Bất-hoàn quả cũng không có sở hữu. Vì Bổ-đặc-già-la của Bất-hoàn quả không có sở hữu, nên Bổ-đặc-già-la của A-la-hán hướng cũng không có sở hữu. Vì Bổ-đặc-già-la của A-la-hán hướng không có sở hữu, nên Bổ-đặc-già-la của A-la-hán quả cũng không có sở hữu. Vì Bổ-đặc-già-la của A-la-hán quả không có sở hữu, nên Bổ-đặc-già-la của Độc-giác hướng cũng không có sở hữu. Vì Bổ-đặc-già-la của Độc-giác hướng không có sở hữu, nên Bổ-đặc-già-la của Độc-giác quả cũng không có sở hữu. Vì Bổ-đặc-già-la của Độc-giác quả không có sở hữu, nên đại Bồ-tát cũng không có sở hữu. Vì đại Bồ-tát không có sở hữu, nên Phật-đà Chánh Đẳng Chánh Giác cũng không có sở hữu. Vì Phật-đà Chánh Đẳng Chánh Giác không có sở hữu, nên hư không cũng không có sở hữu. Vì hư không không có sở hữu, nên Đại-thừa cũng không có sở hữu. Vì Đại-thừa không có sở hữu, nên vô số cũng không có sở hữu. Vì vô số không có sở hữu, nên vô lượng cũng không có sở hữu. Vì vô lượng không có sở hữu, nên vô biên cũng không có sở hữu. Vì vô biên không có sở hữu, nên tất cả pháp cũng không có sở hữu. Do ý nghĩa như vậy, nên nói Đại-thừa có thể bao trùm hết vô số, vô lượng, vô biên hữu tình. Vì sao? Thiện Hiện! Vì ngã cho đến cái thấy, hoặc Bổ-đặc-già-la của Dự-lưu hướng cho đến Phật-đà Chánh Đẳng Chánh Giác, hoặc hư không, Đại-thừa, vô số, vô lượng, vô biên, tất cả pháp, tất cả đều không có sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Lại nữa, Thiện Hiện! Vì ngã cho đến cái thấy không có sở hữu, nên Thanh-văn thừa cũng không có sở hữu. Vì Thanh-văn thừa không có sở hữu, nên Độc-giác thừa cũng không có sở hữu. Vì Độc-giác thừa không có sở hữu, nên Chánh đẳng giác thừa cũng không có sở hữu. Vì Chánh đẳng giác thừa không có sở hữu, nên hư không cũng không có sở hữu. Vì hư không không có sở hữu, nên Đại-thừa cũng không có sở hữu. Vì Đại-thừa không có sở hữu, nên vô số cũng không có sở hữu. Vì vô số không có sở hữu, nên vô lượng cũng không có sở hữu. Vì vô lượng không có sở hữu, nên vô biên cũng không có sở hữu. Vì vô biên không có sở hữu, nên tất cả pháp cũng không có sở hữu. Do ý nghĩa như vậy, nên nói Đại-thừa có thể bao trùm hết vô số, vô lượng, vô biên hữu tình. Vì sao? Thiện Hiện! Vì ngã cho đến cái thấy, hoặc Thanh-văn thừa, Độc-giác thừa, Chánh đẳng giác thừa, hoặc hư không, Đại-thừa, vô số, vô lượng, vô biên, tất cả pháp, tất cả đều không có sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Lại nữa, Thiện Hiện! Vì ngã cho đến cái thấy không có sở hữu, nên Bổ-đặc-già-la của Thanh-văn thừa cũng không có sở hữu. Vì Bổ-đặc-già-la của Thanh-văn thừa không có sở hữu, nên Bổ-đặc-già-la của Độc-giác thừa cũng không có sở hữu. Vì Bổ-đặc-già-la của Độc-giác thừa không có sở hữu, nên Bổ-đặc-già-la của Chánh Đẳng giác thừa cũng không có sở hữu. Vì Bổ-đặc-già-la của Chánh Đẳng Giác thừa không có sở hữu, nên hư không cũng không có sở hữu. Vì hư không không có sở hữu, nên Đại-thừa cũng không có sở hữu. Vì Đại-thừa không có sở hữu, nên vô số cũng không có sở hữu. Vì vô số không có sở hữu, nên vô lượng cũng không có sở hữu. Vì vô lượng không có sở hữu, nên vô biên cũng không có sở hữu. Vì vô biên không có sở hữu, nên tất cả pháp cũng không có sở hữu. Do ý nghĩa như vậy, nên nói Đại-thừa có thể bao trùm hết vô số, vô lượng, vô biên hữu tình. Vì sao? Thiện Hiện! Vì ngã cho đến cái thấy, hoặc Bổ-đặc-già-la của Thanh-văn thừa, Độc-giác thừa, Chánh đẳng giác thừa, hoặc hư không, Đại-thừa, vô số, vô lượng, vô biên, tất cả pháp, tất cả đều không có sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Thiện Hiện! Nên biết, như cảnh giới Niết-bàn có thể bao trùm khắp vô số, vô lượng, vô biên hữu tình, Đại-thừa cũng vậy, có thể bao trùm khắp vô số, vô lượng, vô biên hữu tình.

Thiện Hiện! Do nhân duyên này, cho nên nói: Thí như hư không có thể bao trùm khắp vô số, vô lượng, vô biên hữu tình, Đại-thừa cũng vậy có thể bao trùm khắp vô số, vô lượng, vô biên hữu tình.

Lại nữa, Thiện Hiện! Ngươi nói, lại như hư không, không đến, không đi, không trụ, có thể thấy, Đại-thừa cũng vậy, không đến, không đi, không trụ, có thể thấy? Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tất cả pháp không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ. Vì sao? Vì tất cả pháp hoặc động, hoặc trụ, chẳng thể nắm bắt được.

Thiện Hiện! Sắc không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ; thọ, tưởng, hành, thức không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ. Bản tánh của sắc không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ; bản tánh của thọ, tưởng, hành, thức không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ. Chơn như của sắc không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ; chơn như của thọ, tưởng, hành, thức không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ. Tự tánh của sắc không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ; tự tánh của thọ, tưởng, hành, thức không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ. Tự tướng của sắc không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ. Tự tướng của thọ, tưởng, hành, thức không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Vì sắc, thọ, tưởng, hành, thức và bản tánh, chơn như, tự tánh, tự tướng của chúng, hoặc động, hoặc trụ, chẳng thể nắm bắt được.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nhãn xứ không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ. Bản tánh của nhãn xứ không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ; bản tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ. Chơn như của nhãn xứ không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ; chơn như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ. Tự tánh của nhãn xứ không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ; tự tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ. Tự tướng của nhãn xứ không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ; tự tướng của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Vì nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ và bản tánh, chơn như, tự tánh, tự tướng của chúng, hoặc động, hoặc trụ, chẳng thể nắm bắt được.

Lại nữa, Thiện Hiện! Sắc xứ không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ. Bản tánh của sắc xứ không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ; bản tánh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ. Chơn như của sắc xứ không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ; chơn như của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ. Tự tánh của sắc xứ không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ; tự tánh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ. Tự tướng của sắc xứ không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ; tự tướng của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Vì sắc thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ và bản tánh, chơn như, tự tánh, tự tướng của chúng, hoặc động, hoặc trụ, chẳng thể nắm bắt được.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nhãn giới không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ; sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ. Bản tánh của nhãn giới không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ; bản tánh của sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ. Chơn như của nhãn giới không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ; chơn như của sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ. Tự tánh của nhãn giới không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ; tự tánh của sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ. Tự tướng của nhãn giới không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ; tự tướng của sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Vì nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra và bản tánh, chơn như, tự tánh, tự tướng của chúng, hoặc động, hoặc trụ, chẳng thể nắm bắt được.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nhĩ giới không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ; thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ. Bản tánh của nhĩ giới không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ; bản tánh của thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ. Chơn như của nhĩ giới không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ; chơn như của thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ. Tự tánh của nhĩ giới không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ; tự tánh của thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ. Tự tướng của nhĩ giới không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ; tự tướng của thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Vì nhĩ giới, thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra và bản tánh, chơn như, tự tánh, tự tướng của chúng, hoặc động, hoặc trụ, chẳng thể nắm bắt được.

Lại nữa, Thiện Hiện! Tỷ giới không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ; hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ. Bản tánh của tỷ giới không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ; bản tánh của hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ. Chơn như của tỷ giới không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ; chơn như của hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ. Tự tánh của tỷ giới không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ; tự tánh của hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ. Tự tướng của tỷ giới không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ; tự tướng của hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tỷ giới, hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra và bản tánh, chơn như, tự tánh, tự tướng của chúng, hoặc động, hoặc trụ, chẳng thể nắm bắt được.

Lại nữa, Thiện Hiện! Thiệt giới không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ; vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ. Bản tánh của thiệt giới không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ; bản tánh của vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ. Chơn như của thiệt giới không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ; chơn như của vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ. Tự tánh của thiệt giới không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ; tự tánh của vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ. Tự tướng của thiệt giới không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ; tự tướng của vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Vì thiệt giới, vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra và bản tánh, chơn như, tự tánh, tự tướng của chúng, hoặc động, hoặc trụ, chẳng thể nắm bắt được.

Lại nữa, Thiện Hiện! Thân giới không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ; xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ. Bản tánh của thân giới không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ; bản tánh của xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ. Chơn như của thân giới không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ; chơn như của xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ. Tự tánh của thân giới không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ; tự tánh của xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ. Tự tướng của thân giới không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ; tự tướng của xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Vì thân giới, xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra và bản tánh, chơn như, tự tánh, tự tướng của chúng, hoặc động, hoặc trụ, chẳng thể nắm bắt được.

Lại nữa, Thiện Hiện! Ý giới không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ; pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ. Bản tánh của ý giới không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ; bản tánh của pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ. Chơn như của ý giới không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ; chơn như của pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ. Tự tánh của ý giới không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ; tự tánh của pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ. Tự tướng của ý giới không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ; tự tướng của pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Vì ý giới, pháp giới, và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra và bản tánh, chơn như, tự tánh, tự tướng của chúng, hoặc động, hoặc trụ, chẳng thể nắm bắt được.

Lại nữa, Thiện Hiện! Địa giới không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ; thủy, hỏa, phong, không, thức giới không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ. Bản tánh của địa giới không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ; bản tánh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ. Chơn như của địa giới không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ; chơn như của thủy, hỏa, phong, không, thức giới không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ. Tự tánh của địa giới không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ; tự tánh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ. Tự tướng của địa giới không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ; tự tướng của thủy, hỏa, phong, không, thức giới không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Vì địa, thủy, hỏa, phong, không, thức giới và bản tánh, chơn như, tự tánh, tự tướng của chúng, hoặc động, hoặc trụ, chẳng thể nắm bắt được.

Lại nữa, Thiện Hiện! Thánh đế khổ không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ; Thánh đế tập, diệt, đạo không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ. Bản tánh của Thánh đế khổ không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ; bản tánh của Thánh đế tập, diệt, đạo không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ. Chơn như của Thánh đế khổ không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ; chơn như của Thánh đế tập, diệt, đạo không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ. Tự tánh của Thánh đế khổ không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ; tự tánh của Thánh đế tập, diệt, đạo không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ. Tự tướng của Thánh đế khổ không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ; tự tướng của Thánh đế tập, diệt, đạo không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Vì Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo và bản tánh, chơn như, tự tánh, tự tướng của chúng, hoặc động, hoặc trụ, chẳng thể nắm bắt được.

Lại nữa, Thiện Hiện! Vô minh không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ; hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ. Bản tánh của vô minh không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ; bản tánh của hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ. Chơn như của vô minh không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ; chơn như của hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ. Tự tánh của vô minh không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ; tự tánh của hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ. Tự tướng của vô minh không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ; tự tướng của hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Vì vô minh, hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não và bản tánh, chơn như, tự tánh, tự tướng của chúng, hoặc động, hoặc trụ, chẳng thể nắm bắt được.

Lại nữa, Thiện Hiện! Chơn như không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ; pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, cảnh giới bất tư nghì, cảnh giới hư không, cảnh giới đoạn, cảnh giới ly, cảnh giới diệt, cảnh giới vô tánh, cảnh giới vô tướng, cảnh giới vô tác, cảnh giới vô vi, cảnh giới an ổn, cảnh giới tịch tịnh, pháp định, pháp trụ, bổn vô, thật tế không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ. Bản tánh của chơn như không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ; bản tánh của pháp giới cho đến thật tế không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ. Chơn như của chơn như không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ; chơn như của pháp giới cho đến thật tế không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ. Tự tánh của chơn như không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ; tự tánh của pháp giới cho đến thật tế không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ. Tự tướng của chơn như không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ; tự tướng của pháp giới cho đến thật tế không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Vì chơn như cho đến thật tế và bản tánh, chơn như, tự tánh, tự tướng của chúng, hoặc động, hoặc trụ, chẳng thể nắm bắt được.

Lại nữa, Thiện Hiện! Cái không nội không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ; cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bổn tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ. Bản tánh của cái không nội không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ; bản tánh của cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ. Chơn như của cái không nội không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ; chơn như của cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ. Tự tánh của cái không nội không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ; tự tánh của cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ. Tự tướng của cái không nội không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ; tự tướng của cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Vì cái không nội cho đến cái không không tánh tự tánh và bản tánh, chơn như, tự tánh, tự tướng của chúng, hoặc động, hoặc trụ, chẳng thể nắm bắt được.

Lại nữa, Thiện Hiện! Bố thí Ba-la-mật-đa không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ; tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ. Bản tánh của bố thí Ba-la-mật-đa không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ; bản tánh của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ. Chơn như của bố thí Ba-la-mật-đa không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ; chơn như của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ. Tự tánh của bố thí Ba-la-mật-đa không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ; tự tánh của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ. Tự tướng của bố thí Ba-la-mật-đa không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ; tự tướng của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Vì bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa và bản tánh, chơn như, tự tánh, tự tướng của chúng, hoặc động, hoặc trụ, chẳng thể nắm bắt được.

Lại nữa, Thiện Hiện! Bốn tịnh lự không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ; bốn vô lượng, bốn định vô sắc không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ. Bản tánh của bốn tịnh lự không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ; bản tánh của bốn vô lượng, bốn định vô sắc không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ. Chơn như của bốn tịnh lự không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ; chơn như của bốn vô lượng, bốn định vô sắc không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ. Tự tánh của bốn tịnh lự không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ; tự tánh của bốn vô lượng, bốn định vô sắc không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ. Tự tướng của bốn tịnh lự không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ; tự tướng của bốn vô lượng, bốn định vô sắc không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Vì bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc và bản tánh, chơn như, tự tánh, tự tướng của chúng, hoặc động, hoặc trụ, chẳng thể nắm bắt được.

Lại nữa, Thiện Hiện! Bốn niệm trụ không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ; bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ. Bản tánh của bốn niệm trụ không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ; bản tánh của bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ. Chơn như của bốn niệm trụ không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ; chơn như của bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ. Tự tánh của bốn niệm trụ không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ; tự tánh của bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ. Tự tướng của bốn niệm trụ không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ; tự tướng của bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo không đến, không đi, cũng lại chẳng trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Vì bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo và bản tánh, chơn như, tự tánh, tự tướng của chúng, hoặc động, hoặc trụ, chẳng thể nắm bắt được.

 

Quyển thứ 58

Hết

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/01/2018(Xem: 11519)
Viên dung hạnh nguyện Bồ Đề, Thong dong giữa cõi, lối về phương duyên. Thác duyên giữa chốn lam thiền, Kim Liên hầu Phật, tịch chiên kinh huyền.
06/01/2018(Xem: 9184)
Chúng tôi có duyên được gặp ông Lý Đại Nguyên từ những năm cuối thập niên 1950, khi đến tham dự những buổi nói chuyện về những vấn đề văn hóa, chính trị và văn nghệ vào những ngày chủ nhật tại Đàm Trường Viễn Kiến (nhà ông Nguyễn Đức Quỳnh trong hẻm cạnh chùa Giác Minh của thượng tọa Thích Tâm Châu, đường Phan Thanh Giản). Khi nhập vào Đàm Trường này, chúng tôi còn là học sinh đệ tứ, đệ tam trường Chu Văn An, nhưng được nghe nhiều nhà văn, nhà báo thuyết trình đủ thứ đề tài , trong đó tôi còn nhớ là thường gặp luật sư Nghiêm Xuân Hồng, nhà văn Mặc Đỗ, nhà báo Hồ Nam, nhạc sĩ Phạm Duy, mấy nhà văn nhóm Sáng Tạo, và mấy người trẻ lớp tuổi tôi như Phan Lạc Giang Đông, Phạm Thiên Thư, Lê Triều Quang... Nhà văn hóa Nguyễn Đức Quỳnh, chủ nhà và người chủ trương Đàm Trường Viễn Kiến, với bộ bà ba nâu, trán cao, dáng thanh thoát thường góp nhiều ý kiến trong những buổi nói chuyện, và người thứ nhì là Lý Đại Nguyên, dáng thư sinh, mặc bộ bà ba trắng thường tổng kết những đề tài thảo luận. Tro
29/12/2017(Xem: 23062)
Giáo Sư Trần Quang Thuận, Pháp danh: Tâm Đức Tự: Trí Không Sinh ngày 02 tháng 7 năm 1930 tại Huế. Đệ tử của Cố Đại Lão Hòa Thượng Thích Đôn Hậu. Du học và tốt nghiệp Tiến Sĩ tại Anh. Cựu Bộ Trưởng Bộ Xã Hội, chính phủ Việt Nam Cộng Hòa. Cựu Nghị sĩ Thượng Nghị Viện Việt Nam Cộng Hòa. Chủ Tịch Hội Đồng Điều Hành Hội Ái Hữu Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ. Tổng Thư Ký Hội Đồng Điều Hành Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ. Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Nghiên Cứu Kế Hoạch GHPGVNTNHN-HK. Giám đốc Trung Tâm Học Liệu Phật Giáo, California, Hoa Kỳ. Đã cộng tác với nhiều báo chí Phật Giáo Việt Nam tại hải ngoại.
19/12/2017(Xem: 6864)
Trong diễn văn của Chủ tịch nước Cộng Hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam Nguyễn Minh Triết tại buổi khai mạc Đại lễ Phật Đản Liên Hợp Quốc 2008 tại Trung tâm Hội nghị quốc gia Mỹ Đình Hà Nội đã khẳng định: “Việt Nam là đất nước đa tôn giáo mà đạo Phật là tôn giáo có mặt rất sớm từ gần 2000 năm trước. Ngay từ buổi đầu tiên, với tư tưởng Từ bi, hỷ xả, Phật giáo đã được nhân dân Việt Nam đón nhận, luôn đồng hành cùng dân tộc với phương châm nhập thế, gắn bó giữa Đạo và Đời phấn đấu vì hạnh phúc an vui cho con người. Trong các thời đại, thời nào lịch sử Việt Nam cũng ghi nhận những nhà Sư đại đức, đại trí đứng ra giúp đời, hộ quốc, an dân. Đặc biệt lịch sử Việt Nam mãi mãi ghi nhớ công lao của vị vua anh minh Trần Nhân Tông có công lớn lãnh đạo nhân dân bảo vệ Tổ quốc. Khi đất nước thái bình, Người nhường ngôi từ bỏ giàu sang, quyền quý, tìm đến nơi non cao Yên Tử để học Phật tu hành, sáng lập nên Thiền phái Trúc Lâm, một dòng Thiền riêng của Việt Nam tồn tại mãi tới ngày nay.”
17/12/2017(Xem: 69914)
Bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển, chiếm tới ba tập khổ lớn trong Đại Tạng Kinh Đại Chính Tân Tu, mỗi tập trên dưới 1.000 trang, mỗi trang độ 1.500 chữ, tổng cộng khoảng 4 triệu 500.000 chữ (Hán); thường được gọi là Đại Bát Nhã, mang số hiệu 220. Khoảng giữa năm 1973, theo quyết định của Hội đồng Giáo phẩm Trung Ương Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, Hội đồng Phiên dịch Tam Tạng gồm 18 vị được thành lập với Hòa Thượng Trí Tịnh làm Trưởng ban, Hòa Thượng Minh Châu làm Phó trưởng ban và Hòa Thượng Quảng Độ làm Tổng thư ký. Trong kỳ họp tại Viện Đại Học Vạn Hạnh vào những ngày 20, 21, 22 tháng 10 năm 1973 nhằm thảo luận phương thức, nội dung và chương trình làm việc, Hòa Thượng Thích Trí Nghiệm được Hội đồng phân công phiên dịch bộ Đại Bát Nhã 600 quyển này. Thực ra, Ngài đã tự khởi dịch bộ kinh này từ năm 1972 và khi được phân công, Ngài đã dịch được gần 100 quyển. Đây là bộ kinh lớn nhất trong Đại Tạng, đã được Ngài dịch suốt 8 năm (1972-1980) mới xong và đã dịch theo bản biệt
15/12/2017(Xem: 86883)
Trải hơn 25 thế kỷ, Chánh Pháp của Phật vẫn được tuyên dương và lưu truyền bởi hàng đệ tử xuất gia lẫn tại gia, đem lại giải thoát và giác ngộ cho những ai học hỏi và thực hành đúng đắn. Chánh Pháp ấy là thuốc hay, nhưng bệnh mà không uống thì chẳng phải là lỗi của thuốc. Trong kinh Di Giáo, đức Phật cũng ân cần huấn thị lần chót bằng những lời cảm động như sau: “Thể hiện lòng đại bi, Như Lai đã nói Chánh Pháp ích lợi một cách cứu cánh. Các thầy chỉ còn nỗ lực mà thực hành… Hãy tự cố gắng một cách thường trực, tinh tiến mà tu tập, đừng để đời mình trôi qua một cách vô ích, và sau này sẽ phải lo sợ hối hận.” Báo Chánh Pháp có mặt để góp phần giới thiệu đạo Phật đến với mọi người. Ước mong giáo pháp của Phật sẽ được lưu chuyển qua những trang báo nhỏ này, mỗi người sẽ tùy theo căn tánh và nhân duyên mà tiếp nhận hương vị.
15/12/2017(Xem: 136682)
Văn Hóa Phật Giáo, số 242, ngày 01-02-2016 (Xuân Bính Thân) Văn Hóa Phật Giáo, số 244, ngày 01-03-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 245, ngày 15-03-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 246, ngày 01-04-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 247, ngày 15-04-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 248, ngày 01-05-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 249, ngày 15-05-2016 (Phật Đản PL 2560) Văn Hóa Phật Giáo, số 250, ngày 01-06-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 251, ngày 15-06-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 252, ngày 01-07-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 253, ngày 15-07-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 254, ngày 01-08-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 255, ngày 15-08-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 256, ngày 01-09-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 257, ngày 15-09-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 258, ngày 01-10-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 259, ngày 15-10-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 260, ngày 01-11-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 261, ngày 15-11-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 262, ngày 01-12-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 263, ngày 15-12-2016
15/12/2017(Xem: 10185)
Ban Trị sự GHPGVN thị xã Ninh Hòa, môn đồ pháp quyến vô cùng kính tiết báo tin: Hòa thượng Thích Ngộ Trí. Chứng minh BTS GHPGVN thị xã Ninh Hòa. Trụ trì chùa Trường Thọ. Do niên cao lạp trưởng, Hòa thượng đã thuận thế vô thường viên tịch vào lúc 14 giờ ngày 12/12/2017 (25/10 Đinh Dậu) tại chùa Trường Thọ, tổ dân phố 10, phường Ninh Hiệp, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa. Trụ thế: 75 năm, Hạ lạp: 47 năm.
27/11/2017(Xem: 23150)
Do niên cao lạp trưởng, Hoà thượng đã viên tịch vào lúc vào lúc 04h00 ngày 10 tháng 10 năm Đinh Dậu (nhằm ngày 27/11/2017) tại Quảng Hương Già Lam, 498/11 Lê Quang Định, Phường 1, Quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh, trụ thế 86 Xuân Thu, 62 Hạ Lạp. Lễ nhập Kim Quan được cử hành vào lúc 19h00, ngày 10 tháng 10 năm Đinh Dậu (nhằm ngày 27/11/2017). Kim Quan được tôn trí tại Quảng Hương Già Lam, Quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh.
26/11/2017(Xem: 6525)
Chấn hưng Phật giáo hay Công cuộc Chấn hưng Phật giáo Việt Nam là một phong trào vận động cho sự phục hưng Phật giáo nhằm tìm lại các giá trị truyền thống và phát triển hoằng bá Phật giáo tại Việt Nam, bắt đầu từ đầu thế kỉ 20. Công cuộc này đã làm thay đổi rất nhiều về nội dung và hình thức hoạt động của Phật giáo tại Việt Nam.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]